Top 30 Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện

Tổng hợp trên 30 bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện - mẫu 1

Chiến tranh qua đi, để lại biết bao mất mát tổn thương. Đó không chỉ là những nỗi đau về vật chất mà còn là nỗi đau về tinh thần. Như vết cứa rất sâu vào trái tim của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Truyện ngắn Người ở bến sông Châu là một truyện ngắn như thế, thấm đượm giá trị nhân văn và tình yêu thương, ca ngợi con người mà đặc biệt là những người phụ nữ.

Câu truyện xoay quanh về nhân vật dì Mây. Cô gái trẻ trung xinh đẹp, tóc dì đen dài, óng mượt "Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Trước khi đi xung phong dì có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San. Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn. Hoàn cảnh trớ trêu đã đẩy chú dì vào cảnh người mỗi ngả chia li cách biệt. Có thể thấy chiến tranh, bom đạn thật tàn nhẫn khi đã đẩy họ vào hoàn cảnh tách biệt.

Khi từ chiến trường bom đạn chờ về. Dì Mây bị đạn phạt vào chân, phải đi tập tễnh, bằng chân giả. Tuy nhiên nỗi đau thể chất đó không thấm vào đâu khi ngày dì trở về cũng là ngày dì phải chứng kiến người đàn ông mình yêu thương, nghĩ tới nhiều nhất, người đàn ông mà dì viết tên hằng ngày vào cuốn nhật kí ở Trường Sơn đã đi lấy người phụ nữ khác. Thử hỏi làm sao dì có thể chịu đựng được cú sốc tinh thần dã man tới vậy, lòng người con gái giờ đây là sự hụt hẫng, bàng hoàng, trớ trêu và đầy tuyệt vọng. Nhưng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó ta vẫn thấy được sự kiên cường, mạnh mẽ của dì Mây. Thái độ của dì rất cương quyết, thể hiện sự bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Dì nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị “Mây, chúng ta sẽ làm lại” của chú San. Trước sự thể đã rồi dì nhận phần thiệt thòi về mình, dì chỉ muốn một người đàn bà khổ. Có thể thấy dù đau đớn, tuyệt vọng nhưng dì vẫn nén vào trong, dì là đại diện cho phẩm chất kiên cường của những người phụ nữ bước ra từ chiến tranh và bom đạn

Ở dì Mây còn nổi bật lên phẩm chất tốt bụng, vị tha và bao dung. Khi dì Mây nghe tin cô Thanh vợ chú San khó sinh cô Thanh đẻ thiếu tháng lại tràng hoa quấn cổ dì đã ngay lập tức giúp đỡ không hề suy nghĩa, đắn đo điều gì. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông.

Có thể thấy dì Mây hiện lên với rất nhiều những phẩm chất cao thượng, tốt đẹp, dì đại diện cho những người con gái Việt Nam sẵn sàng hi sinh thầm lặng, đánh đổi cả thanh xuân tuổi trẻ và hạnh phúc của cá nhân mình vì những điều lớn lao khác.

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện - mẫu 2

Với tư cách là nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã phản ánh hậu quả của chiến tranh một cách đầy khéo léo và tinh tế qua tác phẩm "Người ở bến sông Châu". Nổi bật trong văn bản là nhân vật dì Mây. Đây là nhân vật chính cũng là nhân vật trung tâm của toàn truyện.

Dì Mây được tác giả miêu tả với ngoại hình thanh thoát, đẹp đẽ của người con gái đôi mươi. Trước khi tham gia chiến tranh, dì Mây có một mái tóc vô cùng suôn mượt, mềm mại. Mỗi lần gội đầu, dì đều nhờ Mai lấy ghế để đứng lên chải tóc. Vẻ đẹp mái tóc khiến cho chú San "nhìn trộm cũng giật mình". Nhiều lúc ra triền sông chơi, "chạy ngược chiều gió thổi, tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây" làm "Mai thầm ước khi thành thiếu nữ có mái tóc mây dài đẹp như dì". Nhan sắc của dì Mây còn khiến bao người ao ước, đắm say "Ngày xưa dì đẹp nhất làng", "Có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm". Lúc tắm sông, dì để lộ ra bờ vai trần, khuôn ngực căng đầy và chiếc cổ trắng ngần cùng đôi mắt lung linh, huyền hoặc. Đó là một vẻ đẹp hết sức mềm mại, nhẹ nhàng và thanh khiết.

Thế nhưng, sau khi tham gia chiến tranh, mái tóc ấy "rụng nhiều, xơ và thưa". Dì Mây cũng không còn là người con gái lành lặn như trước mà trở thành kẻ tật nguyền với cơ thể đã bị cụt một bên chân. Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp của dì.

Bên cạnh ngoại hình, dì Mây còn để lại cho người đọc bao ấn tượng và rung cảm bởi vẻ đẹp phẩm chất. Có thể thấy, dì Mây là người con gái vô cùng chung thủy. Suốt thời gian dài làm nhiệm vụ cứu chữa người bệnh ở rừng Trường Sơn, dì Mây không lúc nào là không nhớ đến chú San, "Ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào em cũng viết tên anh.". Dù xa nhau nhưng dì luôn mang nặng tình yêu thương đối với chú San.

Ông trời như trêu ngươi khi ngày dì về cũng là ngày người yêu dì - chú San đi lấy vợ. Tình cảm dành cho chú chưa bao giờ vơi bớt song dì vẫn kiên quyết không đồng ý với lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", "Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta sẽ về sống với nhau.". Nếu như không có chiến tranh, nếu như dì về sớm hơn một chút thì có lẽ đám cưới hôm nay sẽ là đám cưới của chú San với dì. Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu ấy đã đẩy dì vào những chọn lựa vô cùng đau khổ. Khác với vẻ quỵ lụy ban nãy, dì dõng dạc nói "Không!" rồi mạnh mẽ "bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân" bỏ lại chú San ở sân. "Ván đã đóng thuyền", biết mọi chuyện tới bước đường này không thể thay đổi được nữa, dì nói "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!" rồi khuyên chú "Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn". Câu nói ấy chất chứa bao nỗi xót xa, cay đắng cho phận mình. Dì Mây rất rạch ròi, dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trong mọi việc, không vì tình cảm mà làm những việc trái với đạo đức, trái với lương tâm.

Ở dì Mây còn ánh lên vẻ đẹp của nghị lực phi thường. Chưa bao giờ, người đọc thấy dì có ý định từ bỏ sự sống sau muôn vàn biến cố, nỗi đau. Mặc dù bị mất một bên chân nhưng hàng ngày dì vẫn cần mẫn giúp ông chèo đò. Không muốn phải tiếp tục chứng kiến người mình yêu bên cạnh người con gái khác, dì quyết định chuyển ra bến sông Châu. Có thể cuộc sống không mấy vui vẻ, song dì vẫn cố gắng vượt qua và vươn lên chính mình.

Không chỉ mạnh mẽ, dì còn có tấm lòng nhân hậu và giàu lòng bao dung với tất cả mọi người. Suốt thời gian chèo đò cho ông, dì không bao giờ lấy tiền đỏ của lũ trẻ cấp ba. Chúng ái ngại nói "Chúng cháu sức dài vai rộng, dì giúp mãi, ngại quá!", dì chỉ cười nói "Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến bữa có lương rồi trả". Lúc xây trạm xá mới, không có người, dì nhận lời của ông chủ tịch xã, quay trở về với nghề xưa. Có những đêm mưa, đường xá đi lại khó khăn, dì vẫn "cậm cạch bước, lưng thấm đẫm mồ hôi". Thấy gì vất vả, ông chủ tịch bảo dì nên tập xe đạp rồi ông rải mạt đá cho. Tuy nhiên, dì bảo "Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục". Không lúc nào dì không nghĩ cho người khác. Dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên lợi ích bản thân.

Ngay cả khi vợ chú San sinh khó, dì sẵn lòng giúp đỡ, không mảy may đến lời cảnh báo của thím Ba. Ở trong hoàn cảnh của dì, thật khó để làm việc ấy, vậy mà dì vẫn ân cần hỗ trợ cô Thanh vượt cạn. Khi thím Ba mất, dì dang rộng vòng tay, yêu thương, chăm sóc thằng Cún như con đẻ của mình.

Qua lời kháo nhau của dân làng, ta còn thấy được sự dũng cảm, kiên cường, không sợ hiểm nguy ở dì Mây. Là một y sĩ Trường Sơn, dì không ngại gian lao, vất vả. Dì chắn cửa hầm che chở thương binh. Cô y sĩ bị phạt vào chân còn người lính công binh vẫn lành lặn. Đó là tinh thần quật cường của người lính cụ Hồ.

Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của nhân vật đã được khắc họa thông qua lời nói, hành động, tâm trạng. Có thể thấy, dì Mây vừa mang vẻ đẹp của người lính cụ Hồ vừa mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Số phận của dì Mây cũng chính là hoàn cảnh của những người bước ra từ chiến tranh.

Qua quá trình phân tích dì Mây, ta càng thêm xót thương, cảm phục trước ý chí và nghị lực phi thường của những người lính. Dì Mây cũng giống biết bao người đi ra từ đống hoang tàn, đổ nát của chiến tranh, cũng mang trong mình những nỗi đau không thể xóa mờ. Nhưng cho dù thế nào, họ vẫn sống, vẫn chiến đấu ngay cả khi súng đạn đã qua đi. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đến thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước.

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện - mẫu 3

Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội. Tuy đến với nghề muộn nhưng ông vẫn gặt hái được nhiều giải thưởng quý giá từ những tác phẩm của mình. Trong số đó, người đọc hết sức ấn tượng với truyện ngắn "Người ở bến sông Châu". Lấy đề tài hậu chiến, nhà văn người Ninh Bình đã tái hiện thành công số phận, cuộc đời con người thông qua nhân vật dì Mây - một người phụ nữ thủy chung, kiên cường.

Dì Mây là một cô y sĩ Trường Sơn. Trước khi vào chiến trường, dì được miêu tả là "đẹp nhất làng". Người ta nói cái răng, cái tóc là góc con người, dì Mây có mái tóc đen óng mượt, dài đến nỗi phải lấy ghế đứng lên để chải. Khi đi trước gió, tóc dì bồng bềnh, khiến bao người say đắm. Lúc tắm với Mai ở sông, dì Mây để lộ ra vẻ đẹp vốn bị giấu kín của mình. Đó là chiếc cổ trắng ngần, ngực căng đầy và đôi mắt sáng lung linh. Có thể thấy, dì Mây mang một vẻ đẹp đầy nữ tính, dịu dàng, trong sáng. Song, chiến tranh qua đi, sắc đẹp của dì không còn nữa. Từ mái tóc bao người mơ ước đã trở thành một mái tóc xơ, rụng nhiều. Không những thế, dì còn mất đi một bên chân do bị mảnh đạn phạt vào khi che chắn cửa hầm cho thương binh. Chiến tranh đã cướp đi cô gái xinh đẹp, duyên dáng của bến sông Châu, trả lại một cô thương binh xơ xác, héo mòn.

Dì Mây và chú San đã từng có quãng thời gian yêu nhau thắm thiết. Khi chú San đi học ở nước ngoài, chính dì là người đã chèo đò tiễn chú. Trong những ngày ở Trường Sơn, dù vất vả mệt nhọc nhưng dì luôn gìn giữ tình cảm của mình, "trang nhật kí nào em cũng viết tên anh". Tình yêu, lòng thủy chung của dì Mây là thứ mà không phải thời gian hay khoảng cách có thể đánh bại được.

Trớ trêu thay, ngày dì Mây trở về từ chiến trường khốc liệt cũng là ngày chú San lấy vợ. Khi chú San biết dì còn sống, chú cố gắng níu kéo "Mây à! Chúng ta sẽ làm lại". Tình huống này đã cho độc giả thấy sự kiên quyết, dứt khoát của dì Mây. Đáp lại lời thỉnh cầu của chú San, dì đã từ chối bằng những lời phủ định mạnh mẽ như "Không" hay "Thôi! Thôi! Lỡ rồi!". Dù còn rất yêu nhưng dì hiểu rằng chú đã đi lấy vợ, nếu tiếp tục đoạn tình cảm này thì rất nhiều người sẽ bị tổn thương. Vậy nên dì Mây đã dứt kiên quyết chấm dứt tình cảm với chú San, khuyên chú nên quay về sống hạnh phúc với vợ.

Phẩm chất đáng quý nhất ở dì Mây là ý chí nghị lực, mạnh mẽ thoát ra khỏi cuộc chiến. Từ Trường Sơn trở về, dì phải chịu nhiều nỗi đau về cả tinh thần lẫn thể xác. Tuy rất buồn vì chú San đi lấy vợ, tình yêu và niềm tin bị phản bội nhưng dì vẫn sống, sống một cách cực kỳ đáng ngưỡng mộ. Dì chuyển ra ở với ông bên bến sông Châu, ngày ngày giúp ông chèo đò. Dù ngày nào cũng đưa mấy đứa trẻ cấp 3 qua sông nhưng chưa bao giờ lấy tiền của chúng, chỉ trêu mấy đứa bao giờ đi làm có lương rồi dì lấy cả thể. Ngoài việc chèo đò, dì còn làm thêm ở trạm xá do ở đó không có người. Những đêm mưa, dì đi bộ đến nhà bệnh nhân bằng cái chân giả hay nạng gỗ, dì bước chân bước thấp bước hụt. Thấy dì khổ quá, ông chủ tịch xã bảo dì tập đi xe đạp để ông rải đá cho đường dễ đi hơn. Dì gạt đi vì "trạm xá còn thiếu thuốc". Dì đã đặt lợi ích của cộng đồng lên trên lợi ích của bản thân, chấp nhận đi bộ như "người tập thể dục" để dành tiền mua thuốc men. Tấm lòng cao cả, nhân hậu ấy được chia đều cho mọi người, cho cả chú San – người yêu cũ đã đi lấy vợ. Ngày vợ chú San khó sinh, trời cũng mưa tầm tã, dì đến đỡ đẻ cho vợ chú mặc lời cảnh báo của thím Ba. Dì làm hết sức để vợ chú được mẹ tròn con vuông, không hề bận tâm đến những khúc mắc trong tình cảm mà chỉ một lòng muốn cứu người. Tấm lòng nhân ái, thương người của dì còn được thể hiện ở việc nhận nuôi thằng Cún khi thím Ba mất. Tuy rằng chưa từng làm mẹ nhưng bằng tình yêu thương và đức tính tốt đẹp của mình, dì đã chăm sóc, nuôi dạy Cún như con đẻ.

Trong hoàn cảnh đau thương, mất mát nhất thì nhân cách cao quý của con người mới được khai thác và sáng lên rực rỡ. Dì Mây cũng vậy, số phận ngặt nghèo không thể đánh gục người con gái như dì mà càng thúc đẩy những đức tính tốt đẹp biểu hiện ra. Bằng việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói, hành động, tác giả đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh dì Mây. Người con gái mang phẩm chất của người lính cụ Hồ dũng cảm, kiên cường song cũng có sự dịu dàng, nhân hậu đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam. Dì Mây đại diện cho rất nhiều mảnh đời vừa bước ra từ cuộc chiến. Tuy cuộc sống khó khăn nhưng họ vẫn cố gắng sống, hướng đến các giá trị tốt đẹp.

Thông qua tác phẩm "Người ở bến sông Châu" và nhân vật chính dì Mây, Sương Nguyệt Minh muốn tố cáo sự ác độc của chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi nhưng hệ quả vẫn còn ảnh hưởng tới rất nhiều thế hệ. Đồng thời, ca ngợi những con người dũng cảm bước ra cuộc chiến. Họ vẫn tiếp tục sống và đối mặt với hậu quả của chiến tranh một cách kiên cường, mạnh mẽ.

Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm truyện - mẫu 4

Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói: “Văn học và nghệ thuật là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”. Quả đúng là như vậy, giá trị chân chính của nghệ thuật chính là ở vẻ đẹp con người. Đến với mỗi tác phẩm văn học, chúng ta như được làm quen, gặp gỡ và thấu hiểu với một số phận, một cuộc đời. Và có lẽ, tôi sẽ chẳng thể nào quên nhân vật dì Mây trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” của Sương Nguyệt Minh.

          Lấy bối cảnh xã hội Việt Nam hậu chiến tranh, “Người ở bến sông Châu” xoay quanh cuộc đời của dì Mây – một người lính trở về sau cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đọc tác phẩm, ta không chỉ cảm nhận được nỗi vất vả, bất hạnh của dì mà còn thấy được sự khốc liệt mà chiến tranh gây ra với con người. 

Trước hết, dì Mây chính là hình ảnh đại diện cho con người sẵn sàng đứng lên chiến đấu hi sinh thân mình vì độc lập dân tộc. Là một cô gái trẻ đẹp với mối tình đang nở rộ, dì sẵn sàng từ bỏ để đi vào chiến trường, đối mặt với tử thần. Trở về từ cuộc chiến, dì nhận được sự đón tiếp nồng hậu từ người dân khắp xóm Trại. “Người đưa đẩy, an ủi, kẻ cảm thông, xót xa”. Có lẽ bởi chiến tranh đã lấy đi của dì quá nhiều thứ. Một mối tình dang dở, một thanh xuân rực rỡ hay một mái tóc đen óng mượt. Ngày trở về, dì cảm thấy lạc lõng ngay chính quê hương của mình khi mọi thứ đã có nhiều thay đổi. Người mà dì yêu thương, mong muốn được gắn bó cả cuộc đời tưởng dì Mây đã hi sinh trong chiến trận mà kết hôn với người con gái khác. Mái tóc dì trước khia đen óng mượt bao nhiêu thì bây giờ rụng nhiều, xơ và thưa bấy nhiêu. Và hơn hết, dì đã mất đi đôi chân của mình. Dì phải dùng chân giả, chống nạng gỗ, khó nhọc leo lên sạp thuyền ngồi. Những điều bất hạnh đến dồn dập nhưng dì vẫn luôn nghị lực, kiên cường, vẫn sống đầy lạc quan. 

Dì Mây còn là một người phụ nữ thuỷ chung, vị tha trong tình yêu. Ở chiến trường, không ngày nào dì không viết tên người mình ra trong nhật kí. Người con gái Trường Sơn nơi đạn nổ bom rơi luôn ôm theo nỗi nhớ thương và yêu vô hạn cho người bạn ở nơi xứ đầy hoa tuyết trắng. Những tưởng người phụ nữ ấy sẽ có một cái kết viên mãn sau khi trở về từ chiến tranh nhưng không... dì trở về trong sự lãng quên của người mà dì yêu thương nhất – chú San. Chàng trai dì từng “bỏ chèo ôm chặt, nép đầu vào ngực người yêu” nay đã có một cuộc sống mời bên tình yêu mới. Dì chẳng thể trách được ai, có chăng là do thời gian đã xoá nhoà đi tất cả những kí ức đẹp giữa hai người. Thế nhưng, trước lời ngỏ “từ bỏ tất cả” và “làm lại” của chú San, dì khẳng khái đáp lại “Không!”. Mặc dù buồn, dù đau, dù còn thương, còn yêu nhưng dì hiểu, hạnh phúc của mình cũng sẽ lấy đi cuộc đời của một người con gái khác: “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi”. Vì hạnh phúc của người mình yêu, dì Mây sẵn sàng hi sinh bản thân mình. Một con người với trái tim thật cao thượng!

Tác giả đã đặt dì Mây vào tình huống trớ trêu hơn khi để dì đỡ đẻ cho cô Thanh – vợ chú San. Trong cơn mưa tầm tã, dì Mây với đôi chân thương tật của mình giúp cô Thanh vượt cạn. Mặc cho lời can ngăn của thím Ba, dì nhẹ nhàng khuyên bảo cô Thanh cố rặn: “Em cố lên. Hãy nghĩ đến đứa con. Nào...cố lên em....” Có lẽ sẽ chẳng ai nghĩ được rằng đây là lời nói của một người phụ nữ đối với người đã thế chỗ cho hạnh phúc của mình. Đỡ đẻ thành công, nghe tiếng trẻ con khóc, dì Mây “xót xa, tủi hơn xen lẫn niềm ao ước, chờ mong, vui buồn lẫn lộn”. Có lẽ dì cũng tủi thân khi bản thân giờ chỉ còn lẻ bóng một mình, dì xót thương cho số phận bất hạnh của bản thân. Giá như hai người không phải chia xa, giá như không có chiến tranh thì có lẽ, bây giờ dì cũng đang được hạnh phúc bên chồng con. Thật tội nghiệp và xót xa cho số phận người đàn bà ấy!

Như vậy, tác giả Sương Minh Nguyệt đã đặt nhân vật dì Mây vào những tình huống đầy thử thách để thông qua đó, nhân vật tự bộc lộ mình. Chúng ta có thể thấy rằng chiến tranh đã cướp đi của con người quá nhiều thứ: nhan sắc, sức khoẻ, tình yêu,... Thế nhưng, chiến tranh sẽ chẳng thể vùi dập tâm hồn con người – một tấm lòng vị tha và cao thượng.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:


Giải bài tập lớp 10 Cánh diều khác