Top 30 Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính
Tổng hợp trên 30 bài văn Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 1)
- Dàn ý Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 2)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 3)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 4)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 5)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 6)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 7)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 8)
- Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính (mẫu 9)
Đề bài: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” ("Quan Âm Thị Kính”) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 1
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia. Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng. Họ khao khát được yêu – một tình yêu chân thành, và ở một chừng mực nhất định, chèo đã hé lộ những khát khao tính dục từ phía người phụ nữ - một dục vọng hết sức con người. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Sự thật có biết bao người con gái đau khổ, bất hạnh vì hôn nhân không tình yêu bởi hệ luật ép duyên. Nên lời Thị Mầu thể hiện sự phản kháng với lễ giáo vô lý trong xã hội mà quyền yêu và lấy người mình yêu không được ủng hộ, chấp thuận. Thị Mầu trong chèo cũng là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu. Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến. Qua những phân tích trên thì mọi người có thể thấy rõ là em nghiêng về quan niệm thứ hai nhiều hơn.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở khao khát tự do yêu đương, bản năng tính dục trong Thị Mầu điều mà người phụ nữa xưa không dám làm.
Dàn ý Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính
1. Mở đầu:
- Giới thiệu vấn đề nêu ra ý kiến.
2. Triển khai:
- Nêu ý kiến của bản thân về việc đồng tình hay không đồng tình với vấn đề được đưa ra. - Giải thích lý do đồng tình với ý kiến Thị Mầu là người lẳng lơ, xấu tính. Điều này được thể hiện qua:
+ Lời nói thiếu tôn trọng Kính Tâm, không phù hợp với nơi cửa chùa.
+ Hành động sỗ sàng, tìm chỗ nấp, xông ra nắm tay Tiểu Kính, thấy Tiểu Kính chạy thì đuổi theo.
- Nêu ra ý kiến khác:
+ Xét trong xã hội phong kiến, Thị Mầu đáng bị lên án vì không giữ tiết hạnh của người phụ nữ.
+ Nếu Thị Mầu sống trong xã hội hiện đại thì hành động của Thị Mầu cho thấy nàng là người dám sống thực với bản thân, đáng thương hơn đáng trách.
3. Kết luận:
- Khái quát, khẳng định lại vấn đề.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 2
Sau khi đọc đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" (trích chèo "Quan Âm Thị Kính"), mọi người thường đưa ra hai quan điểm: thứ nhất, Thị Mầu là người lẳng lơ, xấu tính; thứ hai, Thị Mầu là người phụ nữ dám thể hiện bản thân, đáng thương hơn đáng trách. Vậy các bạn đồng ý với quan điểm nào? Còn mình, mình lại đồng thuận với ý kiến đầu tiên.
Thị Mầu trong văn bản hiện lên với vẻ lẳng lơ, táo bạo. Tính cách ấy thể hiện qua lời nói, hành động mà Mầu bộc lộ ra bên ngoài. Chùa chiền là chốn trang nghiêm nhưng thị lại nói năng không phù hợp. Vừa thấy chú tiểu đẹp liền đem lòng si mê, tự hỏi bản thân "Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?". Mầu không tiếc lời khen "Người đâu đến ở chùa này/ Cổ cao ba ngấn, lông mày nét ngang". Cảm thấy câu nói của mình chưa đủ sức lay động Kính Tâm, nàng đề nghị Tiểu Kính để mõ mình đánh cho. Thậm chí, nàng còn buông lời trêu ghẹo "Bỏ mõ em đánh cho nào. Người đâu mà thấy gái mà lại chạy thế!" khiến chú tiểu sợ hãi đi mất. Hành động của Thị Mầu không phù hợp ở chốn chùa chiền, đi ngược lại với quy chuẩn đạo đức. Xét trong xã hội xưa, Thị Mầu đáng bị lên án vì không giữ tiết hạnh của người phụ nữ "tam tòng tứ đức".
Có thể nói, đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" đã cho chúng ta thấy được thái độ mỉa mai, phê phán của tác giả dân gian đối với những người phụ nữ lẳng lơ, xấu xí như Thị Mầu.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 3
Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Theo em, Thị Mầu đích thực là một người phụ nữ đáng thương. Nàng là một người phụ nữ đẹp, khao khát tình yêu và cũng sống thật với những khao khát của mình. Tuy nhiên, thời đại nàng đang sinh sống lại không cho phép điều đó. Bằng ngôn ngữ chèo đặc trưng, nhân vật Thị Mầu được miêu tả rất rõ nét. Nàng là một người con gái đẹp, được thể hiện qua các hình ảnh như đôi môi đỏ mọng, nụ cười lúng liếng đa tình. Trên sân khấu chèo, những đặc điểm này được cụ thể hoá, biến ra một chú bướm lộng lẫy sắp phá kén chui ra. Nàng để ý đến Thị Kính, suốt ngày áo nâu, tụng kinh, bất động. Bất chấp mọi định kiến, Mầu nghe theo dục vọng và khát khao của trái tim, quấn lấy thầy Tiểu. Ở trong xã hội đó, đây được coi là một việc làm trái với luân thường đạo lý. Không chỉ quyến rũ sư thầy trong chùa, Mầu còn đi ngược lại luân lý thời đó là nam nữ thụ thụ bất thân. Gánh trên vai cái danh lẳng lơ muôn đời phỉ nhổ, nhưng nếu sống ở thời đại khác, có lẽ cuộc đời Thị Mầu sẽ không bi thảm như vậy. Có lẽ, nàng sẽ có được hạnh phúc, sống thật với bản thân và thoải mái thể hiện tính cách của mình. Chỉ tiếc rằng, thời thế không cho phép. Mặc dù những hành động của Thị Mầu không đúng với thuần phong mỹ tục, nhưng cũng không đến nỗi bị chửi là đồ lẳng lơ, xấu tính, gánh trên vai những lời thoá mạ muôn đời.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 4
Nhân vật Thị Mầu có lẽ là một nhân vật được bàn luận nhiều nhất trên sân khấu chèo và cả trong thế giới văn chương của Việt Nam. Khi bàn luận về nhân vật này, thường có hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Đầu tiên, phải nói về cách xây dựng nhân vật Thị Mầu. Nàng là một người con gái xinh đẹp, từ khuôn mặt đến dáng hình. Dưới ngòi bút của tác giả, Thị Mầu xuất hiện trên sân khấu chèo có thể làm cho người xem kinh diễm. Từ những chi tiết như bờ môi, ánh mắt, tác giả lại nói đến dáng vẻ đỏng đảnh, lả lướt phô bày hết thảy những đường cong cơ thể của người con gái. Mọi sự việc diễn ra từ ngày Mầu phải lòng với sư tiểu Thị Kính trên chùa. Mối lương duyên này đi ngược lại với thế tục, nên người đồi không ưa, Thị Kính cũng chẳng bằng lòng. Trái với thời đại, nàng lại chẳng quan tâm đến những cái yêu cầu đặt điều của người đời, chỉ quan tâm đến khao khát và ham muốn của bản thân. Vậy nên, tuân theo dục vọng đó, nàng đã quyến rũ Thị Kính. Hành động của nàng trong xã hội ấy được xem là vô đạo đức, đáng bị người đời phỉ nhổ, trừng phạt. Nhưng liệu rằng, hành động ấy đáng bị lên án như thế hay chăng? Thử hỏi rằng, nếu Mầu sinh ra trong thời hiện đại, nàng có bị vạn người thóa mạ như trước hay chăng? Có lẽ là không. Nàng sinh ra trái thời, vậy nên những khát khao ấy trở nên sai trái, trở nên ngỗ nghịch. Vậy nên, Thị Mầu đã sống thực với bản thân, nhưng lại sống sai thời đại, là một người đáng thương hơn là đáng trách.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 5
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia. Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến.
Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng. Họ khao khát được yêu – một tình yêu chân thành, và ở một chừng mực nhất định, chèo đã hé lộ những khát khao tính dục từ phía người phụ nữ - một dục vọng hết sức con người. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng.
Sự thật có biết bao người con gái đau khổ, bất hạnh vì hôn nhân không tình yêu bởi hệ luật ép duyên. Nên lời Thị Mầu thể hiện sự phản kháng với lễ giáo vô lý trong xã hội mà quyền yêu và lấy người mình yêu không được ủng hộ, chấp thuận. Thị Mầu trong chèo cũng là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu. Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến. Qua những phân tích trên thì mọi người có thể thấy rõ là em nghiêng về quan niệm thứ hai nhiều hơn.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở k
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 6
Mỗi nhân vật trong một tác phẩm văn học đều mang những vẻ đẹp, cá tính riêng. Tác phẩm đưa ra những ý kiến trái chiều để bạn đọc có thể bàn luận cũng được coi là đã thành công tạo được những ấn tượng, thu hút bạn đọc. Nhân vật Thị Mậu trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một người như vậy. Nhận xét về nhân vật, có ý kiến cho rằng: Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Tuy ý kiến trái chiều nhưng đều có những lí lẽ riêng, thể hiện cảm nhận của người đánh giá. Trước hết, hãy cùng thảo luận về ý kiến “Thị Mầu là một người lẳng lơ, xấu tính”. Trước hết, tính cách lẳng lơ của thị được thể hiện qua một vẻ ngoài ấn tượng. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Biết Thị Kính là một thầy tu nhưng Thị Mầu vẫn không ngừng tìm cách quyến rũ. Dù Tiểu Kính đã nhiều lần từ chối như Thị Mầu vẫn không bỏ cuộc mà vẫn luôn tìm cách để trò chuyện, liên tục gọi “thầy tiểu ơi” đầy dịu dàng, tha thiết. Từ những hành động trên, có thể thấy rằng Thị Mầu là một người phụ nữ lẳng lơ, xấu tính.
Thế nhưng, nếu nhìn trên phương diện tích cực thì Mầu lại là một cô gái có khát vọng tình yêu cao cả. Thật hiếm người phụ nữ nào trong xã hội xưa có thể bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn như Mầu. Họ thường sẽ im lặng, âm thầm chịu đựng hoặc dịu dàng, ẩn ý trong tình yêu của mình. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Thị Mầu trong chèo là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu.
Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến.
Tuy có những ý kiến trái chiều về nhân vật nhưng với quan điểm hiện đại ngày nay, có lẽ Thị Mầu không phải là một cô gái “xấu”. Vì vậy, khi đánh giá một nhân vật hay bất cứ con người nào, chúng ta cần dành cho họ một cái nhìn đa chiều và tích cực để từ đó có những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc về con người ấy. Chính nhân vật Thị Mầu đã góp phần làm nên sức sống cho vở chèo “Quan Âm Thị Kính” vẫn còn âm vang mãi tới ngày hôm nay.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 7
Thị Mầu là một người phụ nữ nhưng không biết giữ lễ nghi, phép tắc trong lời nói, hành động, không kiêng dè hay ngại ngùng: Thị khen Tiểu Kính xinh đẹp, nói thích Tiểu Kính, cầm tay Tiểu Kính nhằm ve vãn nàng.
Thị Mầu dám yêu, dám hận, dám bày tỏ tình cảm của mình một cách đầy táo bạo, mạnh mẽ khiến người xem không khỏi trầm trồ, tán dương sự dũng cảm, phóng khoáng vượt lên trên những lễ nghi tầm thường thời phong kiến.
Thị Mầu đúng là người lẳng lơ, xấu tính khi dám nói những điều mà chẳng ai dám nói, làm những điều mà chẳng ai dám làm. Thị thích chú tiểu, ve vãn chú ngay tại ngày đi lễ Phật, mặc kệ lời ra tiếng vào, Thị vẫn theo đuổi Tiểu Kính cho bằng được. Tiều Kính khước từ Thị, Thị vẫn mặt dày mà hát mà tiếp cận Tiểu Kính, chẳng mảy may ý định dừng lại.
Dù Tiểu Kính đã nhiều lần khước từ Thị nhưng Thị vẫn mặt dày bám theo, còn đưa ra những lí lẽ vô lí, đi ngược lại với chuẩn mực xã hội phong kiến xưa.
Thị Mầu cũng như bao cô gái khác, cũng ước muốn được tự do, muốn được ở cùng với người mình yêu, khao khát có được cuộc sống hạnh phúc, ngập tràn niềm vui nhưng lại vấp phải sự ngăn cản của các hủ tục phong kiến.
Thị mặc kệ lời ra tiếng vào của mọi người, bày tỏ sự khao khát muốn có được hạnh phúc của mình bằng việc thổ lộ với Tiểu Kính tâm tư, tình cảm của mình khiến nhiều người xem không khỏi ngưỡng mộ trước tinh thần phóng khoáng đó của Thị.
Thị Mầu là như vậy, xấu tính, lẳng lơ nhưng đó cũng chỉ là xuất phát từ sự khao khát được sống tự do, kiếm tìm hạnh phúc cho chính mình của người phụ nữ.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 8
Chào cô và các bạn. Em xin tự giới thiệu, em là Gia Huy. Trong tiết Nói và nghe hôm nay, em sẽ trình bày những suy nghĩ, ý kiến của mình xoay quanh vấn đề "Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích: "Thị Mầu lên chùa" (trích chèo "Quan Âm Thị Kính") là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách".
Các bạn thân mến, nếu như Thị Kính mang vẻ hiền thục, đức hạnh thì Thị Mầu lại có sự lẳng lơ, phóng túng. Ở hai ý kiến được đưa ra phía trên, mình đồng tình với quan điểm: nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích "Thị Mầu lên chùa" (trích chèo "Quan Âm Thị Kính") là người lẳng lơ, xấu tính.
Trước hết, sự phóng túng của nhân vật này được thể hiện trực tiếp qua lời nói bỡn cợt. Khi vừa bước vào ngưỡng của nhà Phật, Thị Mầu không hề e sợ mà trêu ghẹo Kính Tâm "Tuổi vừa đôi tám, chưa chồng đấy thầy tiểu ơi! Chưa chồng đấy nhá!". Chưa dừng lại ở đó, Mầu tiếp tục buông lời ve vãn "Người đâu mà đẹp như sao băng thế nhỉ?". Tiếp đến, bản chất lẳng lơ còn được khắc họa thông qua những hành động tìm chỗ nấp nhằm thực hiện mong ước được "nắm tận tay chú tiểu". Thị Mầu đã bỏ qua những lễ nghi phong kiến "nam nữ thụ thụ bất thân" mà làm hành động nắm tay, tranh việc quét sân. Và cuối cùng, mọi cố gắng đều không thành, Thị Mầu trực tiếp buông lời khó nghe "Mô với chả Phật".
Như vậy, thay vì thành tâm kính Phật, Thị Mầu lại có những lời lẽ, hành động thiếu tôn trọng ngay tại nơi trang nghiêm. Mầu không hề ý thức những việc làm của bản thân, bất chấp mọi lễ nghi để thỏa mãn mong muốn của bản thân. Từ đây, mình thấy nhân vật này là người lẳng lơ, xấu tính.
Tuy nhiên, các bạn ơi, chúng mình phải ghi nhớ một điều rằng đoạn trích này ra đời trong bối cảnh chế độ phong kiến. Khi đó, người phụ nữ phải tuân theo những quy phạm đạo đức cơ bản "tam tòng tứ đức", "công, dung, ngôn, hạnh". Vì thế, lời nói và hành động của Thị Mầu đã đi ngược với các chuẩn mực xã hội. Nếu đặt trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, Thị Mầu có thể coi là người dám sống thực với bản thân vì đã dũng cảm theo đuổi ước muốn của bản thân. Tuy nhiên, mình thấy cách theo đuổi ở nhân vật này không hề phù hợp và đứng đắn.
Có ý kiến cho rằng nhân vật thị mầu là người lẳng lơ xấu tính - mẫu 9
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia. Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng. Họ khao khát được yêu – một tình yêu chân thành, và ở một chừng mực nhất định, chèo đã hé lộ những khát khao tính dục từ phía người phụ nữ - một dục vọng hết sức con người. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Sự thật có biết bao người con gái đau khổ, bất hạnh vì hôn nhân không tình yêu bởi hệ luật ép duyên. Nên lời Thị Mầu thể hiện sự phản kháng với lễ giáo vô lý trong xã hội mà quyền yêu và lấy người mình yêu không được ủng hộ, chấp thuận. Thị Mầu trong chèo cũng là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu. Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến. Qua những phân tích trên thì mọi người có thể thấy rõ là em nghiêng về quan niệm thứ hai nhiều hơn.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở khao khát tự do yêu đương, bản năng tính dục trong Thị Mầu điều mà người phụ nữa xưa không dám làm.
Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:
- Có người quan niệm không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Em hãy trình bày ý kiến của mình về hai quan niệm trên.
- Hãy viết một đoạn văn (khoảng 8-10 dòng) bày tỏ suy nghĩ của em về bản án mà Huyện Trìa đưa ra.
- Hãy viết một văn bản hướng dẫn du khách khi tham gia một lễ hội hoặc tham quan một di tích lịch sử, văn hóa ở địa phương nơi em sinh sống.
- Em muốn gia nhập Câu lạc bộ Tình nguyện viên để tham gia tổ chức các hoạt động của lễ hội hoặc giới thiệu với khách tham quan về di tích lịch sử, văn hóa ở địa phương mình sinh sống. Hãy viết bài luận thuyết phục Ban Tổ chức của lễ hội hoặc Ban Quản lí di tích chấp nhận mong muốn của em.
- Hãy viết bài luận về bản thân để thuyết phục một trường đại học ở nước ngoài cấp học bổng du học cho em.
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:
- Soạn văn 10 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 10 Cánh diều (ngắn nhất)
- Soạn văn 10 Cánh diều (siêu ngắn)
- Giải Chuyên đề học tập Văn 10 Cánh diều
- Giải lớp 10 Cánh diều (các môn học)
- Giải lớp 10 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 10 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều