Top 30 Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước
Tổng hợp các bài văn Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 2)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 3)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 4)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 5)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 6)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 7)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 8)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu 9)
- Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước (mẫu khác)
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 1
Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.
Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:
Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cẩm nang nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.
Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu nay khác rồi,
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha...”
Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đồng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa”
Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mọi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.
Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khó rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.
Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:
“Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.”
Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Nước chúng ta...”
Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.
“Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa...”
Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:
“Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.
Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.
Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.
Nguyễn Đình Thi hình như chờ cho lịch sử viết xong thiên sử thi của dân tộc mình, rồi mới theo đó mà viết nốt phần thứ hai này. Có lẽ vì vậy mà dù thiên về xây dựng những hình ảnh có tính biểu tượng khái quát, lời thơ vẫn âm vang những tiếng vọng của cuộc sống hào hùng của một đất nước chiến đấu và chiến thắng, ơ đó, có âm vang của phong trào phát động quần chúng trong cải cách ruộng đất:
“Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn”
Có âm vang nhịp bước vào công - nông - binh "liên minh" kháng chiến:
“Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Nhưng nếu như những biểu tượng khái quát trên đây chỉ được xây dựng bằng cảm quan lịch sử, bằng sự kiện thì Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã không làm xôn xao lòng người đến thế. Rất nhiều những biểu tượng đã kết tinh từ những kĩ niệm riêng, từ chính quan sát, trải nghiệm của một nghệ sĩ từng sống lăn lộn trong kháng chiến. Cho nên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi có nhiều khổ, nhiều dòng lấp lánh cái chất sống của nhà thơ và của nhân dân.
Khi ông viết:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Thì ta hiểu đó là nỗi đau chung quyện vào những nỗi đau riêng, và nỗi đau ấy nung nấu thêm vì một nỗi nhớ xao xuyến chay lòng. Trong đó có kỉ niệm về một buổi chiều hành quân ở Bắc Giang: Nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc hằn lên như cào cấu "đâm nát trời chiều".
Ráng chiều đỏ bầm lại, rãnh cày đồng quê như "chảy máu". Những chi tiết rất thực, rất sống sít ấy đã vào thơ và trở thành biểu tượng đau thương của đất nước trong kháng chiến chống Pháp. Đó không còn là hình ảnh của một thời mà là hình ảnh của mọi thời giặc giã, không còn là hình ảnh của một vùng quê Bắc Giang mà hiển thân của mọi vùng quê, mọi đất nước dưới gót giày quân xâm lược.
Những hình ảnh đau thương quặn lòng ấy sẽ còn "nung nấu" những "đêm dài hành quân" nhưng cũng từ miền đau thương sâu thẳm ấy, mọc lên những ngôi sao thương nhớ lấp lánh, thao thức bồn chồn. Đó là ánh mắt "người yêu" là nỗi nhớ bồn chồn và cũng chính là sự thôi thúc, là niềm tin.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, nỗi "nhớ mắt người yêu" như nhớ một ánh sao lấp lánh ấy thường trở đi trở lại nhiều lần (Trong Bài thơ viết cạnh đồn Tây: "Nhớ em đôi mắt hay cười", Trong Em bảo anh: "Tia lửa nơi ta bay lên cao - Trong mắt người yêu thành trời sao", trong Nhớ: "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh - Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây"...)
Nhưng đặc biệt ở "Đất nước", "Mắt người yêu" gợi một nỗi nhớ lớn lao sâu thẳm, vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, vượt lên trên nỗi nhớ người yêu. Bởi thứ ánh sáng bất chợt bừng lên trong tâm hồn ấy có cả nỗi đau, nỗi nhớ, có cả buồn vui, cả tin yêu hy vọng, cả riêng và chung. Bài thơ khép lại bằng một cảnh tượng hào hùng, tráng lệ:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Cảnh tượng vĩ đại này cũng là một biểu tượng khái quát về sự lớn mạnh quật cường của đất nước từ trong đau thương gian khổ. Nhưng đó là một bức tranh sống động. Cảm hứng hiện thực lấy từ chiến thắng Điện Biên Phủ: Đoàn quân "áo vải", "đứng lên thành những anh hùng" phất cao cờ chiến thắng trên nóc hầm viên tướng bại trận Đờ Caxtơri chiều mùng 7 tháng 5 lịch sử.
Cảnh tượng đó đã được nhiều nhà quay phim, chụp ảnh ghi lại, nhưng hiếm có ở đâu gợi cho ta thật nhiều ấn tượng như ở đây, có cái gì rung chuyển như một cơn trở dạ vĩ đại của trời đất, của lịch sử. Trước mắt ta lồng lộng, chói lòa một "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy..." Đó là cái "rũ bùn đứng dậy" của Phù Đổng Thiên Vương thời đánh Pháp.
Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần.
(Nhớ)
Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".
Dàn ý Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước
1. Mở bài
- Đây là một bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất nước đánh giá là hay nhất bài thơ vì biểu lộ cảm xúc trực tiếp về một mùa thu mới đang tới trên quê hương.
2. Thân bài
- Đoạn thơ nguyên là những mảng của hai bài thơ khác nhau nối lại với sự điều chỉnh và sửa chữa chút ít.
- Mở đầu, nhà thơ gợi lại hình ảnh của một “mùa thu đã xa” với không khí “xao xác” và hình ảnh “người ra đi” lặng lẽ. Nỗi xao xác bâng khuâng là âm điệu chính của câu đầu này.
- Tiếp theo, tác giả bộc lộ niềm vui giao hòa giữa lòng người và vật khi chứng kiến “mùa thu nay” đầy âm điệu háo hức
- Mùa thu của đất trời giải phóng. Hai chữ “vui nghe” không chỉ diễn tả một trạng thái tình cảm nhận thời mà còn nói rõ cách nghe hay là một cách nhận thức mới của nhà thơ về cuộc đời.
- Từ niềm vui nói trên, đoạn thơ chuyển ý rất tự nhiên nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng với non nước mình, mặt khác, bộc lộ cảm xúc tự hào và sung sướng của nhà thơ trước vẻ đẹp đắm say của Tổ quốc.
- Phần cuối của đoạn thơ dẫn người đọc vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước, ở đây xuất hiện một định nghĩa rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi về Tổ quốc Việt Nam.
3. Kết bài
- Trong bài thơ “Đất nước” dường như cảm hứng thời đại đã hòa quyện với cảm hứng lịch sử trong một niềm xúc động thơ đẹp đẽ như vậy.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 2
Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.
Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.”
Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:
“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.
Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.
Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.
Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.
Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.
Từ mùa thu năm xưa, nhà thơ dẫn vào cảm xúc về mùa thu của cách mạng, mùa thu của độc lập dân tộc trong khung cảnh hiện tại của chiến khu Việt Bắc:
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha”
Nếu như bảy câu thơ đầu viết theo thể thơ thất ngôn, gần như trọn vẹn là một bài thơ thất ngôn bát cú, diễn tả những cảm xúc lắng đọng, trang trọng, phù hợp với cách diễn tả nỗi nhớ thì đoạn thơ tiếp theo lại viết theo thể thơ tự do, thể hiện cái náo nức, niềm vui phơi phới, tràn đầy tiếng nói cười. Câu thơ “Mùa thu nay khác rồi” là câu thơ chuyển đoạn, một sự khẳng định hay một lời reo vui mà sao nghe tha thiết đến thế!
Có thể thấy ở đây thiên nhiên được nhân hóa không chỉ đầy màu sắc, âm thanh mà còn chan chứa tình người. So với mùa thu xưa, cái “khác rồi” rõ nhất ở mùa thu nay là “vui”: niềm vui của hiện thực khách quan đã thành niềm vui của chủ thể trữ tình và khi cất lên thành cảm xúc thơ ca, niềm vui ấy lại lan tỏa vào từng cảnh vật được miêu tả, khắp núi đồi, rừng cây, bầu trời. Tiếng cười “trong biếc” nghe tha thiết được chuyển đổi cảm giác như lan tỏa vào cảnh vật, gieo niềm vui đến muôn nơi.
Rõ ràng cảm xúc về mùa thu đã gắn liền với niềm vui, niềm yêu mến, tự hào làm chủ đất nước. Với con mắt say mê của nhà thơ, đất nước nơi nào cũng tươi đẹp, cũng dài rộng bát ngát, cũng màu mỡ phì nhiêu, cũng tiềm tàng sức sống cho một cuộc đời ấm no hạnh phúc. Chính vì thế, cảm xúc của nhà thơ đi từ trạng thái vui tươi đến sự khẳng định chắc chắn:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
Điệp khúc "của chúng ta" như ngân vang trong lòng người và giữa đất trời sông núi. Đó không chỉ là ý thức về quyền làm chủ đất nước mà còn là niềm tự hào của những con người Việt Nam qua Cách mạng tháng Tám đã giành lại đất nước bằng mô hôi, xương máu của chính mình. Những câu thơ là sự khẳng định liên tiếp, nhanh, dồn dập của nhà thơ cũng là của con người Việt Nam trước độc lập của đất nước.
Có được mùa thu đẹp như thế hôm nay, được nắm vững chủ quyền độc lập trong tay, người ta không thể không nghĩ tới những cội nguồn sâu xa đã tạo nên sự thay đổi vĩ đại ấy. Đó đâu chỉ là sức mạnh của hiện tại mà còn là sức mạnh của truyền thông bao đời, đó cũng là bản chất của con người Việt Nam – những con người luôn gắn bó, tha thiết với quá khứ, hướng tới tương lai, sống thầm lặng, bình dị nhưng bất khuất và anh hùng:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.”
Đó là đất nước của tình yêu, đất nước của nguồn cội “con Rồng cháu Tiên”. Đó là một cách cảm nhận ở Đất nước. Trong bài thơ, Nguyễn Đình Thi định nghĩa đất nước là đất nước của những con người anh hùng, anh hùng ở mọi thời đại, những khí phách tinh hoa vẫn âm vang trong hồn thiêng sông núi. Dáng điệu của đất nước được khái quát bằng chiều dài của lịch sử tâm hồn, khí phách của nhân dân ta. Nghe tiếng vọng của cha ông cùng hồn thiêng sông núi, trong lòng ta dâng lên một niềm tự hào về chính Tổ quốc mình.
Xuất phát từ tình yêu và niềm tự hào về Tổ quốc, Nguyễn Đình Thi nghĩ về cuộc kháng chiến gian lao mà anh dũng, ở đó cảm hứng chủ đạo là hướng tới sự khẳng định Tổ quốc nhân dân, cuộc cách mạng này được quyết định bằng sức mạnh của nhân dân. Dường như đây là một quy luật tất yếu – giặc đến xâm lược quê hương, đất nước mình, những con người hiền lành hồn hậu trở thành những con người cháy bỏng lòng căm thù:
“Từ gốc lúa bờ tre hiền hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn.”
Vẫn trong nguồn mạch của lòng căm thù, gây ấn tượng hơn cả là hai câu thơ:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.”
Trong ánh chiều tà, cánh đồng vùng vành đai trắng như nhuốm đỏ màu máu, hàng dây thép gai đồn giặc tua tủa chĩa lên đâm nát bầu trời và bầu trời ấy cũng đỏ rực như đang ứa máu. Đó là hình ảnh có thực mà Nguyễn Đình Thi đã nhận ra trên chặng đường hành quân, nhưng với cách miêu tả rất gợi của nhà thơ kết hợp với từ cảm thán “ôi” đặt ở đầu câu thơ, hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng cho đất nước đau thương trong chiến tranh, bị quân thù chiêm đóng, đồng thời lên án, tố cáo tội ác của quân giặc tàn bạo.
Cánh đồng quê kia chứng kiến bao cảnh đầu rơi máu chảy, là dấu tích của sự tàn ác mà quân giặc gây ra. Chiến tranh đồng nghĩa với sự tàn phá, đau thương, chết chóc. Nhưng vượt lên trên những đau thương ấy, cuộc sống vẫn chảy trôi, những tình cảm của con người vẫn biểu lộ hết mình:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”
Đó là cái rất chung của người lính ra đi chiến đấu. Trong hành trang của họ bao giờ cũng có nỗi nhớ. Bên cạnh những nỗi nhớ người thân, xóm làng còn có nỗi nhớ người yêu. Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng nội về nỗi nhớ ấy, nó xoa dịu đi bao nhiêu nỗi đau vì quê hương bị tàn phá.
Có thể nói, nhà thơ đã kết hợp giữa cái “tôi" và cái "ta” rộng lớn. Nói về cái chung để nói đến cái riêng, cái riêng đó là tình cảm hết sức chân thật, đời thường. Những giây phút “bồn chồn nhớ mắt người yêu” ấy là những khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất quý trên đường hành quân qua mưa bom, lửa đạn. Đó là những giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà.
Cùng với sức mạnh của lòng căm thù, những con người bình dị của nước non này đã xung trận với sức mạnh bất khuất từ nghìn xưa của cha ông, sức mạnh của sự gắn bó với những gì thân thuộc trong đời sống hàng ngày, sức mạnh của ước mơ giản dị về cuộc sống quê hương thanh bình – tất cả đã tạo nên điều vĩ đại:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.”
Chính những người anh hùng áo vải ấy, theo cách nói của Nguyễn Đình Thi. đã “gánh trên vai cả cuộc kháng chiến thắng lợi”, cũng chính họ đã tạo nên dáng hình đẹp đẽ, rực rỡ của Tổ quốc trong hào quang của chiến thắng của tương lai:
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.”
Bốn câu thơ đã tái hiện được cả quá trình đi lên của dân tộc, trải qua những vất và hi sinh để giành lại độc lập từ tay giặc. Biết được những vất vả gian lao ấy, ta mới thấm thía được giá trị của nền độc lập, của cuộc sống tự do. Bốn câu thơ viết theo thể thất ngôn, làm thành một bài thơ tứ tuyệt mang tính chất sử thi hùng tráng, thể hiện niềm tự hào về lịch sử và con người Việt Nam. Và tất cả sự dồn nén của tình cảm, của cảm xúc, sự dồn nén của lòng căm thù, cuối cùng cũng phát ra thành tiếng nổ lớn:
“Súng nổ rung Trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
Nhịp thơ ngắn, nhanh như những bước chân đang dồn dập xông lên, thể hiện khí thế, sức mạnh của lòng căm thù cao độ (biểu hiện qua hình ảnh “súng nổ rung trời giận dữ”). Vũ khí nhấn chìm, tiêu diệt hết quân giặc bằng sức mạnh của cả một dân tộc bị áp bức bóc lột, đô hộ trong gần một thế kỉ được biểu hiện bằng hình ảnh so sánh “người lên như nước vỡ bờ” lấy từ thành ngữ “tức nước vỡ bờ”.
Sức vươn dậy thần kì của đất nước và con người Việt Nam từ kiếp sống nô lệ, đầy tăm tối dưới bùn đen đã vượt qua những trận chiến đấu ác liệt đầy máu lửa để đi đến chiến thắng sáng chói, vinh quang như một tượng đài lịch sử đã được nhà thơ khắc họa thật rõ nét.
Có thể nói, từ một chi tiết có thực trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nhà thơ đã nâng lên thành tư thế của cả một dân tộc, khái quát đầy đủ khí phách của cả dân tộc. Nhân dân ta đã chiến thắng hoàn toàn thực dân Pháp, đánh đổ ách thống trị hàng trăm năm của chúng. Hòa bình đã lập lại, đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, nhân dân ta đã hoàn toàn tự do. Bài thơ kết thúc trong tư thế đi lên của dân tộc, của con người Việt Nam.
Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 3
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ.
Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên.
Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê.
Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.
Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay - giã - dần - sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo.
Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”.
Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần.
Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước.
Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 4
Đất nước” là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi một con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài thơ “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
(…) Đất Nước có từ ngày đó”.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca “Mặt đường khát vọng” được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu, cổ tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà “mẹ thường hay kể”:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian “đằng đẵng”, trên không gian địa lí “mênh mông”, qua sự tích “Trăm trứng” và giỗ Tổ Hương Vương. Nhà thơ bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn năm trở về cội nguồn Đất Nước:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
(…) Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Tục “bới tóc xăm mình” của người Lạc Việt, câu ca dao “gừng cay muối mặn” nói về đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội nguồn “Đất Nước có từ ngày đó”. Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:
“Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá Ngư Ông móng nước biển khơi”.
Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, “trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu nước là nghĩa vụ thiêng liêng:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp, “lối sống” của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
99 con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc Ông Trang… đều do Nhân Dân ta “góp cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ. “Bốn nghìn lớp người” đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước: “Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con - Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Nhân Dân là người sản xuất “giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng tạo ra ngôn ngữ “truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương “Đất Nước” chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:
“Khi ta lớn lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.
Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ khẳng định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất Nước. Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục “búi tóc” của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: “Tay bưng chén muối đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ”, trong tình thương của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta. Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng: “Cái cột, cái kèo thành tên”.
Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức “một nắng hai sương”, thì ngôn từ “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước “ngày xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh hùng “biết trồng tre mà đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca dao “gừng cay muối mặn”, qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có “gừng cay muối mặn”, cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la.
Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng - phân - hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 5
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn.
Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc...Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 6
Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ "Đất nước" của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.
Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người đọc trở về thuở sơ khai, khi đất nước mới được sinh ra:
"Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó... "
Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm "Đất nước" đã được nêu lên thật cụ thể. Đất nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, không biết có từ bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì đất nước đã có rồi. Người đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ "ngày xửa ngày xưa", một khoảng
Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường. Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, đất nước được hiện lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa nắng nhọc nhằn. Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương. Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của sự sống "cái cột", "cái kèo", hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.
Đất nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.
Bằng những lời thơ bình dị như thế, đất nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:
"Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê hương đất nước.
Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:
"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng"
Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:
"Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"
Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác giả. Khẳng định chắc chắn rằng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.
Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương, che chở:
"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn"
Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên một đất nước hòa bình, tươi đẹp.
Và hơn thế nữa, đất nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường tồn vững vàng:
"Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời... "
Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn đất nước hòa bình và luôn thật tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết, dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và gắn bó cùng đất nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước muôn đời.
Đi sâu vào từng ngõ ngách trên đất nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình đất nước, cả những dòng sông sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng đất nước là do nhân dân làm nên từ muôn đời bằng chính tình yêu nồng thắm, chân thành:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Bằng ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những chiến công hiển hách của cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời còn nhắc mãi,... Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất, trung kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước, sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 7
Từ xưa đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của nền văn học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước. Quan điểm đó đã được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất nước đối với mỗi người là một ý niệm khác nhau. Đối với Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm biết của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, lần lượt từng lớp lang của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở. Ông không định nghĩa bằng những khái niệm quá mông lung, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức cụ thể trong chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua khái niệm của tác giả, Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu, từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan quân xâm lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, thấm thuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ tấm bé.
Không chỉ vật Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho thấy nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta. Dù một nghìn năm Bắc thuộc, bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không có cách nào xóa được những vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm có sự vận dụng hết sực thuần thục ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước được hình thành từ những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng, cao quý.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước không xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, không ngần ngại mà làm sáng tỏ nó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước chính là được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để làm sâu sắc thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ quá khứ: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào ta trong bọc trứng”. Từ sự lí giải sâu sắc hai phương diện lịch sử và địa lý ông đã dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh vác” đã khẳng định trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời ông cũng lên tiếng nhắc nhở, dù xây dựng đất nước cũng không được quên đi công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với hai chữ “cúi đầu” cũng đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê cha, đất tổ.
“Trong anh và em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã khẳng định, Đất Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của mọi người, là sự yêu thương của đôi lứa. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì khi ấy mới có đất nước vẹn tròn ton lớn. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”. Vì bởi:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt những địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Để làm nên đất nước chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là những người nào?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Quả đúng, đó chính là người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống và chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ là người đã làm nên Đất nước. Với biện pháp liệt kê và điệp “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng tầng lớp lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại cho con cháu những giá trị vật chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến chính là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Đến đây Nguyễn Khoa Điềm đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng đất nước nhân dân của mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước cũng là trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi thủy của mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, khơi dậy nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết lại bằng tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng khắp núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu suy tư và triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại được mở mang thêm tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm yêu mến, tự hào với nơi mình được sinh ra và lớn lên.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 8
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ "khi" để đánh dấu sự ra đời của khái niệm "đất nước". Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lý giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những "ngày xưa ngày xưa". Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ:ngày xửa, ngày xưa" đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc. Là những con người đó làm nên đất nước...
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam.
Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như "kèo, cột" đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa "đất nước" thành hai từ "đất" và "nước" để lý giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh "con chim phượng hoàng", "núi bà đen, bà điểm", "lạc long quân âu cơ" chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lý, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.
Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 9
Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Đoạn trích "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy.
Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật... họ viết về hào khí của cả một dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.
Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?" Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.
Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che nhau.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”
Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.
Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.
Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo - một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.
Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó...”, ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.
“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”.
Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”.
Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm... Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân.
Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc.
Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.
Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 10
Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân, nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn lao. Đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cũng ra đời trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Đó là những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước sôi sục, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn luôn gắn liền với vận mệnh của đất nước. Viết trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn góp một tiếng nói nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở vùng tạm chiếm miền Nam. Đoạn trích Đất Nước thuộc chương V của trường ca, đây cũng là phần hay nhất của bản trường ca này, có thể hiện sự nhận thức sâu sắc của một thế hệ thanh niên Việt Nam về đất nước. Chính nhận thức ấy đã trở thành một điểm tựa để mỗi người tự suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ chính luận thể hiện cảm nhận “Đất Nước của Nhân dân”. Sở dĩ gọi là chính luận bởi trong bài thơ này nhà thơ muốn bàn luận về đất nước, về nhân dân. Đó là những khái niệm về đất nước vừa quen thuộc vừa mới mẻ nhưng tác giả không dừng lại ở chỗ lí giải đất nước là gì, nhân dân là gì mà ông còn muốn bày tỏ những tình cảm sâu nặng của mình đối với đất nước, đối với nhân dân. Sự kết hợp giữa hai phương diện này một cách nhất quán đã làm cho bài thơ vừa mang chất chữ tình, vừa mang chất chính luận. Toàn bộ đoạn trích được chia thành những khổ và những đoạn nhỏ để trả lời cho mỗi câu hỏi và giữa các câu hỏi ấy được liên kết với nhau khá chặt chẽ. Khởi đầu là những câu hỏi về thời gian, tác giả muốn đưa bạn đọc trở về quá khứ để tìm trong lịch sử cái thời điểm mà đất nước ra đời:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…
Trong một đoạn thơ ngắn mà xuất hiện một loạt các trạng từ chỉ thời gian: “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Gắn liền với những trạng từ đó là những miếng trầu bà vẫn thường ăn hàng ngày, nghĩa là đất nước có từ rất lâu đời, từ thuở xa xưa trong văn hóa dân gian, trong phong tục tập quán, trong tình yêu của mỗi gia đình, trong từng hạt gạo. Sau mỗi câu hỏi xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm câu trả lời cho một câu hỏi quen thuộc hơn. Đất là gì? Đây không phải là câu hỏi mới mẻ và Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên đặt câu hỏi này. Người ta đã từng có những định nghĩa trong lịch sử, trong địa lí, trong dân tộc học. Trong văn học, từ lâu lắm rồi, người ra cũng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Cái mới của Nguyễn Khoa Điềm chính là đi tìm một câu trả lời của riêng mình, của thế hệ mình. Ở đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ liên tiếp đưa ra những nhận định của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo, thật trữ tình và có sức hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bài thơ không chỉ viết cho tuổi trẻ, không chỉ cho những người yêu nhau mà viết cho tất cả mọi người. Định nghĩa Đất Nước được kéo dài nhưng lại kiến giải rất đơn giản, rất có lí và đầy thuyết phục. Đó là những kiến giải trên hai trục không gian và thời gian, “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, giữa cái thời gian và không gian ấy hiện ra một đất nước với dáng vẻ hùng vĩ với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá như ông móng nước biển khơi”.
Đó là một không gian trữ tình hùng vĩ của đất nước. Ở đây tác giả trở về với truyền thuyết và dùng truyền thuyết để cắt nghĩa đất nước là gì.
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.
Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào t trong bọc trăm trứng, đất nước tạo ra mọi người, tất cả mọi thế hệ, những người đang sống, những người đã khuất. Nhưng ở nơi nào thì mọi người dân ở đất nước này cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước vừa linh thiêng rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi thân thuộc. Đất nước có trong anh, trong em và trong tất cả mọi người, trong thế hệ đã khuất, trong thế hệ hôm nay và trong thế hệ mai sau. Bao giờ cũng có một đất nước vẹn tròn tình nghĩa. Vẫn là giọng chính luận khúc chiết mà lời thơ đằm thắm chứa chan bao tìm cảm:
Em ơi đất nước là máu xương của mình
….
Làm nên đất nước muôn đời…
Đọc những câu thơ này của Nguyễn Khoa Điềm, ta chợt nhớ đến một câu thơ của Chế Lan Viên, một người cũng rất hay đưa những khái quát trong thơ khi nghĩ về đất nước. Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa Điềm thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng dường như có một sự gặp gỡ nào đó khi nói về tình yêu lớn lao của mỗi người về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm viết “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế mà phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở” thì Chế Lan Viên viết:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Chính luận cần sự minh xác bởi những lí lẽ thuyết phục sẽ làm người ta tin, chất chữ tình để làm con người ra xúc động yêu thương. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất chữ tình từ những hình ảnh chi tiết cụ thể mà nâng dần lên tầm khái quát.
Ở phần thứ hai của bài thơ xuất hiện một loạt những hình ảnh, những chi tiết cụ thể khi nói về đất nước, một phát hiện độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi nhà thơ chỉ ra những yếu tố để góp thành đất nước. Ở đây có một loạt tên hùng vĩ, một đất nước bao la, một đất nước với truyền thống ngàn năm trong lịch sử không phải là một cái gì đó lớn lao, to tát mà là những thứ gần gũi, quen thuộc đối với mọi người. Công lao để góp nên đất nước không thuộc về riêng ai, không chỉ có anh hùng vĩ nhân mới có công làm nên đất nước mà cả những người con bình thường, những con người vô danh sống âm thầm lặng lẽ nhưng chính họ đã góp cho đất nước cuộc sống của mình. Đó là những người yêu nhau góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên” và cả những con vật bình thường như con gà, con cóc nhưng lại có đủ sức để góp cho đất nước một Hạ Long đẹp huyền thoại. Những cái tên gọi bình thường của những người dân Việt Nam như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” làm nên những địa danh nổi tiếng của đất nước.
Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tác giả không dừng lại ở đây coi như một sự kết thúc cho những cảm nhận và suy ngẫm về đất nước, cảm xúc và những suy ngẫm trải dài bởi dường như động tới bất kì cái gì cũng là nói về đất nước, từ những người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái cùng con. Trong số họ đã có những người trở thành anh hùng. Tuy nhiên, đất nước không chỉ được làm nên bởi bốn nghìn lớp người ‘họ đã sống và chết – giản dị và bình tâm – không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Tác giả muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người vô danh, với những việc làm thầm lặng, giản dị và quen thuộc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Chính họ đã truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng, đã cho ta ngọn lửa, cho con ta tiếng nói… Sau những suy ngẫm, nhà thơ đi đến kết luận: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, đất nước của tất cả mọi người, trong đó có cả những anh hùng và cả những người vô danh. Họ không để lại một dòng tên trong lịch sử, không một tượng đài, một tấm bia lưu danh nhưng lại cho đất nước một cuộc đời bình dị và chính những sự bình dị ấy đã làm nên một đất nước lớn lao mạnh mẽ, làm nên một đất nước trường tồn với thời gian và hùng vĩ trong một không gian bao la, rộng lớn.
Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy. Bằng cảm xúc chân thành và suy nghĩ sâu sắc, nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc những cảm nghĩ rất riêng của mình về đất nước, góp phần làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng. Đất không phải là tiếng nói của riêng nhà thơ mà là cảm nhận của một thế hệ thanh niên trong thời kì chống Mĩ về đất nước. Đây cũng là một sự thể hiện, một nét độc đáo trong giọng điệu của Nguyễn Khoa Điềm, đó là sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 11
Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả, trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn thơ cất cánh.
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân.
Giản dị như một lẽ tự nhiên, bài thơ mở đầu với khát khao tìm hiểu đất nước có tự bao giờ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Khi xưa, đất nước gắn với những huyền thoại, truyền thuyết, với những vương triều hùng mạnh. Ngày nay, Nguyễn Khoa Điềm về lại hành trình trong sự quen thuộc, gần gũi. Có cái xa xăm của lịch sử nhưng gần gũi với kí ức ấu thơ. Đó là cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ kể con nghe; cái ấm áp của những hình ảnh dưới mái nhà Việt, với “miếng trầu” thắm đỏ bà ăn, cây tre ngàn đời đánh giặc và nghĩa tình mẹ cha đằm thắm. “Cội nguồn” không gì khác là gia đình thân thuộc, ấm cúng.
Những câu thơ nhẹ nhàng, ấm áp, bay bổng trong đời và hòa trộn trong ca dao, cổ tích để làm nên điệu hồn êm ái. Đó là sự tích trầu cau “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là sự tích cậu bé làng Gióng lên ba tuổi nhổ tre mà phá giặc, là lời ca dao “Muối gừng” ân nghĩa thủy chung. Đất nước hiện lên nên thơ, bay bổng và mĩ lệ dưới con mắt tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm.
Đất Nước còn là chiều rộng không gian địa lí – cách nhìn có lẽ không phải là mới mẻ.
Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi viết:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”
Đó là không gia rất dài, rất rộng, rất cao mang tầm vóc sử thi tráng lệ.
Với Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”
Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.
Đất nước đồng thời là chiều dài thời gian lịch sử:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”
4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.”
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)
Đến:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
Sau này Chế lan Viên viết:
“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó là thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Đó là truyền thuyết về bọc trăm trứng, với nơi chim về, rồng ở, và ngày giỗ Tổ thiêng liêng. Đó là kết quả trước tưởng tượng bay bổng của tâm hồn đầy khát vọng, đẹp một cách gần gũi và mơ mộng, bay bổng và mĩ lệ,…mà dường như trước và sau Nguyễn Khoa Điềm chưa ai nói được như thế.
Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm lên Đất Nước muôn đời…”
Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.
Tiếp sau đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên giới thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật liệt kê và cách điệp lại cấu trúc nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.
Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng góp của nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng chờ đợi chung thủy sừng sững giữa trời. Đó là núi bút non nghiêng xây đắp bởi lòng hiếu học của những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào vời vợi trong lời ca ngợi non sông gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bảo vật vô tri khác đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở” và với tác giả đó là niềm yêu kính trước công lao to lớn của nhân dân, xây đắp “hình sông thế núi”.
Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời là lời yêu cầu tình yêu đất nước, thức tỉnh lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong mỗi người. “Em ơi em” là lời gọi ngọt ngào, tha thiết, trìu mến, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói về những điều lớn lao mà không hề sáo rỗng. Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” bằng tuổi chúng ta, và người ra trận, kẻ ở lại, có những anh hùng “cả anh và em đều nhớ” nhưng cũng có những anh hùng vô danh “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một nén hương tận tâm còn vương khói thắp lên cho nhân dân, dân tộc.
Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta truyền giữ hạt lúa, truyền từng ngọn lửa, truyền giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ chống giặc ngoại xâm. Các giá trị vật chất luôn đi kèm văn hóa tinh thần, cả kiến quốc và vệ quốc. Những câu thơ gợi nhắc tới: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải phóng quân:
“Em là cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?”
Hoặc:
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp nhất!”
Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 12
“… Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân.
Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết: “Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ (trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.
Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.
Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt Nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
…
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân đều được viết hoa, trở thành “mỹ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.
Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước” được diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước.
Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”.
(Giang Nam)
Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước.
Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hòa nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này.
Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nền truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam. Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh.
Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần. Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động.
Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”
(Trần Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
(Chế Lan Viên)
Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.
“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 13
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận. Đoạn trích "Đất nước" đã cho người đọc thấy rõ được những đặc điểm của thơ ông. Đặc biệt đoạn thơ đầu của bài thơ nhà thơ đã giải thích Đất nước bằng những hình ảnh giản dị hằng ngày:
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
....
Đất nước có từ ngày đó".
Câu thơ đầu cất lên đầy giản dị và mộc mạc: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi". Câu thơ ngỡ như một câu nói bình thường, đưa người đọc trở về những hình ảnh thuở xưa của đất nước. Tổ quốc này đã phôi thai và hình thành suốt chiều dài lịch sử, khi con người xuất hiện, lớn lên thì đất nước đã có rồi.
"Đất nước có trong...mẹ thường hay kể."
Hình ảnh đất nước hiện lên qua những lời kể của mẹ. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" gợi trong chúng ta những nỗi niềm cổ tích xa xăm nhưng thật diệu kì. Nơi ấy có cô tấm, chàng Thạch Sanh, một thế giới lung linh huyền ảo ấy ta đã có dịp lạc vào từ thuở ấu thơ.
"Đất nước bắt đầu...bà ăn"
Đất nước vốn lao lao nhưng bây giờ cũng ẩn mình vào trong miếng trầu bà ăn. Và chính miếng trầu ấy lại chứa đựng cả một nền văn hóa của người Việt Nam ta. Người xưa có câu "miếng trầu là đầu câu chuyện" nó thể hiện sự giao tiếp, là tín hiệu của hạnh phúc nhân duyên. Miếng trầu đã đi sâu và nếp cảm, nếp nghĩ của người dân Việt từ bao đời nay. Qua hình ảnh này chúng ta cũng thấy được chiều dài của lịch sử, của đất nước, cội nguồn nơi chúng ta sinh sống.
"Đất nước lớn lên...đánh giặc"
Tổ quốc vững mạnh và trưởng thành theo từng năm tháng, phải trải qua những năm tháng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Câu thơ trên mang hơi thở của Thánh Gióng là người đã sử dụng tre làng để đánh giặc. Và bất cứ một người Việt Nam nào không thể không biết đến truyền thuyết Thánh Gióng ấy. Và với lời thơ bình dị của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên qua những phong tục cổ truyền của người Việt Nam:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu"
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xuất hiện với mái tóc búi sau trở thành nét đẹp, nét truyền thống của phụ nữ Việt. Tập tục này không chỉ tôn lên vẻ đẹp đoan trang của người phụ nữ mà còn thể hiện nét đẹp đặc trưng trong bản sắc văn hóa của người Việt.
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước cũng gắn liền với những đạo lý son sắc thủy chung mà tính nghĩa : "Cha mẹ...gừng cay muối mặn". Người Việt Nam ta vốn coi trọng nghĩa tình, sống có trước có sau, đặc biệt là sự thủy chung trong tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Đặc biệt, sự vận dụng câu ca dao"gừng cay muối mặn" là sự có chủ ý của nhà thơ.
Tác giả tiếp tục phát hiện hình ảnh đất nước có mặt trong những sự vật rất đỗi bình thường "cái kèo, cái cột thành tên". Thì ra đất nước to lớn, vĩ đại như vậy chẳng ở đâu xa, nó gắn liền với những công việc lao động thường ngày nhất với con người.
"Hạt gạo...sàng"
Tác giả sử dụng thành ngữ "một nắng hai sương" kết hợp với phép liệt kê đã khắc sâu sự vất vả của người nông dân để làm ra hạt thóc, hạt gạo. Đồng thời , câu thơ cũng cho thấy những vẻ đẹp phẩm chất của người lao động Việt nam. Đó là sự chịu thương, chịu khó, sự cần cù của người dân trên dải đất hình chữ S này.
Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ rất thành công với thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ. Nhà thơ đã vận dụng thành cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết thúc những câu thơ ấy, trong lòng người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi và biết bao mến thương.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 14
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 15
Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công với giọng thơ trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước, tiếp nối mạch suy tưởng của thi ca giai đoạn trước. Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm, được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỷ niệm:
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng…
Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân – cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ riêng tư để hướng về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của “anh và em hôm nay” đến với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những vẻ đẹp “hài hòa nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại chống Mỹ. Hơn thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ chống Mỹ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”. Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng con người, giọng thơ tâm tình thấm thía:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.
Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình tượng Đất Nước kỳ vĩ và giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự do, cuộc chiến đấu của lương tri chống lại thế lực bạo tàn.
Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 16
Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ Việt Nam. Có một thực tế: mỗi lần đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ độc đáo. Trường ca Mặt đường khát vọng với trích đoạn Đất Nước là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật này. Trong trích đoạn nói trên, những cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc.
Trước tiên, đất nước hiện lên trong chiều dài của thời gian. Thời gian trong trích đoạn Đất Nước đầy ắp những hình tượng huyền thoại lấy từ trong truyền thuyết, phong tục dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình tượng thời gian này đất nước hiện lên trong chiều sâu thẳm của thời gian nguồn cội, đầy thiêng liêng thành kính.
Bên cạnh “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Có không gian gắn với sự sinh tồn của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Có không gian gắn bó với cuộc đời riêng tư của mỗi cá nhân; “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”... Sự song hành của các không gian như thế gợi lên hình tượng đất nước như là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân. Đất Nước thiêng liêng mà cũng thật gần gũi gắn bó.
Đất nước còn hiện lên trong bề sâu văn hóa - phong tục, lối sống, mang đậm bản sắc Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn hiện trong toàn bộ trích đoạn. Từ một nét phong tục: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho đến nghi thức thiêng liêng của ngày giỗ Tổ. Tuy nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên thấm thía và đẹp đẽ nhất với những phát hiện và ngợi ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu đắm say mà chung thủy; trọng nghĩa tình nhưng vì thế mà quyết liệt, không khoan nhượng trước kẻ thù.
Tư duy triết học hướng tới khám phá, nhận thức cái thống nhất. Tầm vóc triết học trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không gian - thời gian - văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân gắn kết làm nên tính chính thể của hình tượng đất nước. Cái hạt nhân gắn kết này, không gì khác, đó chính là quan niệm: đất nước của nhân dân.
Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên - Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Không gian đất nước cũng được tạo hình từ những “ao ước”, “lối sống" của ông cha từ bao đời nay. Cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng - Họ truyền lửa.. - Họ truyền giọng điệu... - Họ gánh theo tên xã, tên làng...”. Một mật độ lớn các động từ được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân - những người “làm ra Đất Nước”.
Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu...). Trong văn học cách mạng, tư tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hác Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước của nhân dân trong văn học.
Đoạn thơ mở đầu trích đoạn là một minh chứng sống động cho những đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Hiện lên qua đoạn thơ là hình tượng đất nước mênh mang trong thời gian. Nét đặc sắc là ở chỗ chiều sâu thời gian ấy được gợi lên trước tiên từ những “ngày xửa ngày xưa” trong lời kể của mẹ. Đây không phải là thời gian lịch sử chính xác với những niên đại cụ thể. Nó là thứ thời gian mơ hồ, ảo diệu trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Nó không định vị chính xác nhưng giúp ta cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về sự trường tồn của đất nước.
Gương mặt của đất nước được hình dung từ những gì gần gũi bình dị trong cuộc sống thường ngày. Có cái gì thật chia ly, tường tận trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ một cách búi tóc, một câu ca dao đến những sự vật bình dị: cái kèo, cái cột. Ngay cả đối với những vật tưởng rất mực bé nhỏ như “hạt gạo” thì tác giả vẫn có sự cảm nhận thật sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng hai sương” - “xay” - “giã” - “giần” - “sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành bầu khí quyển bao bọc lấy cuộc sống của mỗi con người. Ở đâu, trong bất kì biểu hiện nhỏ bé nào cũng mang hình đất nước. Đất nước được kéo gần lại thân quen, gắn bó máu thịt với con người.
Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một ngôn ngữ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian. Ngôn ngữ không bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc văn hóa dân gian, ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân. Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà còn được hiện thực hóa bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ.
Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 17
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ... gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào: Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm "Đất nước của nhân dân".
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất...", một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 18
Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài thời gian - lịch sử, qua về rộng của không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn hóa - phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập trung làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây, thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng trong đánh giặc; là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Đó là một chân lý. Một chân lý đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao, mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 19
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc .
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ ... gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa , giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia . Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau .
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa :
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm "Đất nước của nhân dân" .
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất ...", một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn .
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa - phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .
Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước .
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên ... không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi : "Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái" , "Người học trò thắng cảnh" . Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó .
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui ...
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 20
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hy sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng "Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại" là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống văn hóa, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một "hệ quy chiếu". Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua "miếng trầu bây giờ bà ăn", qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cài gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vấn đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thông, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, văn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: "Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái". "Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên". Cả đến "Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh", ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã "quy nạp" thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 21
Cùng với các nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó không gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của ông thì đây chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.
Mở đầu bài thơ chính là một lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm dường như ta có thể thấy rằng, đất nước không phải là cái gì trừu tượng, xa xôi khó nắm bắt mà đất nước chính là những gì thân thuộc và gần gũi nhất. Đất nước có từ trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa, trong miếng trầu của bà ăn, trong ống tre bất khuất kiên cường, trong những phục tục tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất nước Việt Nam rất đỗi anh hùng, tình nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Và đây có thể nói chính là một định nghĩa, định danh về đất nước hoàn toàn mới và hoàn toàn thiết thực nhất, rõ ràng nhất.
Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn chính là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho những điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là nơi em tắm” hàng ngày. Thế nhưng để rồi khi “ta hò hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn lại thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta nữa.
Đất nước còn chính là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những minh chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Biết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi sông bờ cõi. Đó còn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta. Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một truyền thống yêu nước, thương nòi, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông cho những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong và em” “đều có một phần đất nước”. Dường như chính phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con cháu mai sau.
Vì có phải những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên hình hài của đất nước cho nên:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về 4000 năm lịch sử oanh liệt hào hùng của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề kể về những vương triều to lớn hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn mạnh “người làm ra đất nước” lại chính là những con người bình dị đời thường và họ là những người vô danh. Chính họ chứ không phải ai khác, không phải là một ông vua bà chúa nào, họ đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời sau. Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác giả khẳng định một chân lý:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Đối với câu thơ sau, hai vế dường như song song nhân dân – đất nước lại càng khẳng định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và tình cảm của nhân dân. Những giá trị ấy cũng như đã kết tinh lại trong những câu ca dao, tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Và định nghĩa về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc biết bao nhiêu.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 22
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng ở thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Quê gốc của ông ở làng An Cựu, xã Thủy An. Ông học tập và trưởng thành trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham gia chiến đấu chống Mĩ. Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ và chính trị ở Huế.
Ông được bầu làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin. Từ năm 2001 đến 2006, ông là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ mà tài năng và tên tuổi được khẳng định trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về đất nước, về dân tộc. Năm 2000, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Cõi lặng (thơ, 2007). Trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, nội dung phản ánh sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm bị chiếm ở miền Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược; đồng thời thể hiện những suy ngẫm và quan điểm của nhà thơ về đất nước, dân tộc.
Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của trường ca là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Tác giả bày tỏ suy nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của bản thân về đất nước trên nhiều bình diện địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân
Đoạn trích chia làm hai phần: Phần một: Từ đầu đến… Làm nên Đất Nước muôn đời: cảm nhận của tác giả về đất nước trên các phương diện cuộc sống của con người: địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục. Phần hai: Tác giả đúc kết nên một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân dân.
Giữa hai phần gần như không có sự tách biệt rõ ràng về nội dung vì ở phần nào tác giả cũng thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước trên nhiều mặt, nhưng mỗi phần có một trọng tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc. Ở phần 1, Đất Nước được tác giả cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng ngày, sau đó mở rộng ra với Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh mông trong những truyền thuyết về thời dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận của nhà thơ hướng vào sự hiện diện của Đất Nước trong mỗi con người; từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi công dân đối với Đất Nước.
Ở phần sau, Đất Nước được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: Đất Nước của Nhân dân, chính Nhân dân đã làm nên đất nước. Khái niệm Đất nước được gợi nên từ những thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị… Đất Nước gắn với bề dày lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người không nhớ mặt đặt tên.
Họ từng sống rất giản dị và bình tâm, nhưng cũng chính họ là những người đã làm nên Đất Nước, truyền lại cho con cháu muôn đời. Cuối cùng, mạch suy tưởng của tác giả dẫn đến một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Khác với các nhà thơ trước, khi viết về đất nước thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách thể hiện rất tự nhiên và bình dị:
Khi ta lớn tên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ cảm xúc và suy tưởng của mình về Đất Nước dưới hình thức trò chuyện tâm tình, tạo ra một cảm giác gần gũi, thân thiết. Nhà thơ lấy chất liệu từ văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ, từ đời sống quen thuộc hằng ngày. Bởi vậy nên không gian nghệ thuật được mở rộng ra nhiều chiều và hình tượng thơ trở nên trữ tình, bay bổng.
Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, từ lời kể chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ, từ các phong tục tập quán có từ lâu đời: Miếng trầu bây giờ bà ăn, Tóc mẹ thì bới sau đầu. Đất Nước có từ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất Nước hình thành từ tình nghĩa vợ chồng thủy chung, Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn, từ quá trình lao động bền bỉ của dân tộc; từ hình ảnh hạt gạo ta ăn hằng ngày thấm đẫm mồ hôi một nắng hai sương.
Câu thơ: Cái kèo cái cột thành tên diễn tả thời gian hơn là không gian. Phải bao năm tháng những vật dụng hằng ngày trong nhà mới có tên để gọi. Đấy cũng là quá trình sinh thành của Đất Nước từ không đến có, từ nhỏ hẹp tới lớn lao. Tất cả những điều đó làm cho khái niệm Đất Nước trở nên gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.
Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch sử lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các triều đại phong kiến hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân mình biết trồng tre mà đánh giặc… đến nền văn minh lúa nước sống Hồng cùng những phong tục, tập quán có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước được cảm nhận từ chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 23
Nguyễn Khoa Điềm một cây bút tài năng, thơ ông giàu cảm xúc, đậm chất chiêm nghiệm, suy tư, đi vào chiều sâu triết lí. Trong hệ thống sáng tác của ông, nổi bật nhất chính là trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích trong sách giáo khoa được trích từ phần đầu của chương V, có tên là Đất nước đã nói lên nguồn gốc cũng như truyền thống vẻ vang của dân tộc.
Trong phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Khoa điềm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Đất nước là gì?” và “Đất nước có từ bao giờ?”. Với câu hỏi đầu tiên, tác giả đem đến cho người đọc câu trả lời: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi/ …/ Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Như vậy, với cách giải thích hết sức gần gũi, thân thuộc, đậm chất dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã cho người đọc thấy đất nước đã có từ lâu đời, từ những câu chuyện cổ tích dung dị mà ta vẫn nghe hàng ngày; là sự tích trầu cau đượm tình vợ chồng, thắm thiết tình anh em; là truyền thuyết Thánh Gióng cậu bé vụt lớn nhổ cây bên đường đánh tan giặc Ân. Không chỉ vậy đất nước còn gắn liền với những phong tục tập quán đẹp đẽ của cha ông: “Tóc mẹ thì bới sau đầu/ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam duyên dáng, gọn gàng với búi tóc được búi cao sau đầu, đây là nét văn hóa đặc trưng của người dân Việt Nam. Tác giả cũng đã vận dụng tài tình “gừng cay muối mặn” để thấy rõ tình nghĩa thủy chung, hôn nhân bền chặt sâu sắc của cha ông ta thuở trước. Để làm rõ khái niệm đất nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho ta thấy đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc sống đời thường: là khi chúng ta dựng nhà, sinh con đẻ cái: Cái kèo cái cột thành tên, cách đặt tên đơn giản này cũng xuất phát từ quan niệm của ông cha ta, đặt tên xấu cho dễ nuôi; là nền văn minh lúa nước: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau mới có thể tạo nên hạt gạo trắng, hạt cơm thơm ngon, ngọt bùi. Và lời thơ kết đoạn thật nhẹ nhàng: “Đất nước có từ ngày đó”. Ngày đó là ngày có sự kết hợp của phong tục, truyền thống, văn hóa được tạo dựng trong một thời gian lâu dài.
Sau khi trả lời câu hỏi đất nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục truy nguyên, để tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi thứ hai: “Đất nước là gì?”. Những tưởng rằng đất nước là những gì cao siêu, xa vời, khác thường, nhưng không, đối với Nguyễn Khoa Điềm không gian đất nước lại được tái hiện hết sức bình dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của con người: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm”; đất nước là không gian của tình yêu đôi lứa, để đôi ta hò hẹn và nhung nhớ nhau trong chiếc khăn lỡ đánh rơi; không chỉ vậy, đất nước còn là nơi trở về của những người con có tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng: “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/ Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”; và đất nước còn là không gian sinh sống của biết bao thế hệ cha ông. Đất nước hiện lên vừa giản dị, là nơi gầy dựng cuộc sống yên ấm hạnh phúc, lại vừa lớn lao, vĩ đại.
Không chỉ cảm nhận đất nước ở chiều không gian, mà tác giả còn cảm nhận cả ở chiều dài lịch sử từ quá khứ “đằng đẵng”, đất nước hào hùng, với sự ngã xuống của nhiều người, đem lại bình yên cho quê hương, xây dựng phong tục tập quán và “gánh vác phần người đi trước ở lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau”. Trong hiện tại, đất nước giản dị gần gũi, trong mỗi con người đều có một phần của đất nước, và khi có sự đoàn kết của tất cả mọi người sẽ đem lại một đất nước vẹn tròn, đầy đủ và tràn đầy sức mạnh nhất: “Khi chúng ta nắm tay mọi người/ Đất nước vẹn tròn to lớn”. Ở đây thi nhân đã rất tinh tế khi đi từ cái riêng, tình cảm cá nhân: “khi hai đứa cầm tay/ Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm” để đi đến cái lớn lao, tập thể là đất nước vẹn tròn to lớn. Còn sợi dây nào bền chặt hơn sợi dây tình cảm, sợi dây ấy sẽ gắn kết tất cả mọi người với nhau tạo nên một đất nước vững bền. Không dừng lại ở đó, ông còn hướng ánh mắt mình đến tận tương lai để hi vọng, để tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước: “Mai này con ta lớn lên/ Con sẽ mang đất nước đi xa/ Đến những tháng này mơ mộng”. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”. Trước hết, ông khẳng định đất nước là xương máu của mình, của cha ông để lại, bởi vậy vận mệnh của đất nước nằm trong tay mỗi chúng ta. Hai câu thơ sau như một mệnh lệnh “phải biết” cống hiến sức mình cho sự nghiệp chung của đất nước. Và câu thơ cuối là lời gọi đầy tha thiết “em ơi em” thể hiện sự chân thành, bởi vậy mà sức lan tỏa càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Nếu như trong phần đầu tiên của tác phẩm là hành trình Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa, lí giải, truy nguyên nguồn gốc của đất nước thì đến phần còn lại của đoạn trích ông đi tìm “Ai đã là người làm nên Đất nước”. Đoạn thơ thể hiện rõ nét và sâu sắc nhất tư tưởng đất nước nhân dân của ông. Với Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước nên “Đất nước này là Đất Nước của nhân dân”. Tư tưởng này không chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm mới có, mà cách đón hàng trăm năm, Nguyễn Trãi cũng đã từng khẳng định: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (Lật thuyền mới biết dân như nước). Đối với Nguyễn Khoa Điềm ông không chỉ dừng lại ở lời khẳng định, mà còn lần lượt chứng minh trên các phương diện địa lý, lịch sử và văn hóa.
Trước hết là trên phương diện không gian địa lí, thi sĩ cảm nhận đất nước qua những danh lam, thắng cảnh, là núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất tổ Hùng Vương. Đoạn thơ có sự xuất hiện với mật độ dày đặc của những địa danh quen thuộc, gần gũi đã làm nên bức tranh sống động về thiên nhiên quê hương đất nước. Đồng thời, nó còn gợi liên tưởng sâu xa về vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam ẩn chứa trong dáng hình sông núi. Đặc biệt, kết cấu đoạn thơ rất lạ và độc đáo, dù có độ dài ngắn khác nhau nhưng chúng đều có chung một cấu trúc: chia làm hai vế và giữa các vế được nối kết bằng từ: góp, góp cho, góp nên, góp mình. Qua đó đã khẳng định, đằng sau vẻ đẹp của hình sông, dáng núi là sự cống hiến, hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ con người cho đất nước hôm nay.
Bốn câu thơ cuối khiến cho tầm khái quát của đoạn thơ được nâng lên một bước: Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/ Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha/ Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. Bốn câu thơ là lời khẳng định cho sự hóa thân thần kì và bền bỉ của nhân dân vào bóng hình, vào sự tồn vong của đất nước. Không phải những thế lực siêu nhiên, mà giản dị hơn nhiều, chính nhân dân là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất này.
Trên phương diện thời gian lịch sử, nhìn vào bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nguyễn Khoa Điềm càng thấm thía hơn công lao to của cha ông khi xây dựng đất nước, nhất là lớp người trẻ tuổi. Đó là những con người bình dị, năm tháng nào cũng có, cũng giống như anh và em của hôm nay. Khi đất nước yên bình, họ hiền lành và chăm chỉ trong công việc lao động để xây dựng đất nước, đưa đất nước đi lên sánh ngang với bè bạn quốc tế: Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp/ Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng. Còn khi giặc xâm lược, họ sẵn sàng mang hết sức trẻ để chiến đấu: Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con/ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh. Giản dị và bình tâm, họ chiến đấu không phải để lập công trạng lưu danh muôn đời mà vì mong muốn quê hương được bình yên. Họ sống giản dị và bình tâm, cống hiến âm thầm và lặng lẽ. Họ không có gương mặt và tên tuổi, nhưng chính họ đã làm nên Đất Nước.
Không chỉ sống, chiến đấu, bảo vệ đất nước mà cha ông ta còn làm nên những giá trị tinh thần để lại cho con cháu mai sau: là hạt lúa, là ngọn lửa, giọng điệu, tên làng tên xã, … Chính họ đã làm và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống cho dân tộc. Câu thơ cho thấy niềm tự hào và lòng biết ơn to lớn của tác giả đối với cha ông, nhân dân trong suốt bốn nghìn năm lịch sử.
Cuối cùng trên phương diện văn hóa, khẳng định tư tưởng Đất Nước của nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú của văn học dân gian, mà tiêu biểu là ca dao để chứng minh. Ông đã chọn ba câu ca dao tiêu biểu nhất từ kho tàng thơ ca dân gian để ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn Việt, vẻ đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc: trong tình yêu luôn say đắm: Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi; quý trọng tình nghĩa hơn những giá trị vật chất tầm thường: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội; kiên trì bền bỉ trong đấu tranh đến ngày toàn thắng: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu. Và bài thơ khép lại trong những suy ngẫm và cảm nhận tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm về vẻ đẹp thơ mộng của non sông đất nước.
Đất nước đã thể hiện những suy ngẫm vô cùng sâu sắc, những tình cảm tha thiết của ông dành cho đất nước. Đồng thời tư tưởng đất nước của nhân dân bao trùm toàn bộ tác phẩm, cho thấy nhận thức đúng đắn và long biết ơn sâu sắc của ông đối với thế hệ đi trước. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và trữ tình, vận dụng linh hoạt chất liệu văn hóa dân gian, nhịp thơ linh hoạt góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 24
Quê hương đất nước là chủ đề, cảm hứng nổi bật trong văn học nghệ thuật. Các tác giả luôn đặt trọn tình cảm yêu mến da diết vào những tác phẩm của mình. Với quãng thời gian sáng tác 7 năm (từ 1948 đến 1955), nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết nên bài thơ nổi tiếng mang tên "Đất nước". Thi phẩm này đem đến cho người đọc những cái nhìn chân thực về một Việt Nam anh hùng, kiên cường.
Có thể thấy rằng, chủ đề của "Đất nước" được thể hiện ngay trong chính nhan đề - Tổ quốc Việt Nam ta. Bằng ngòi bút tài tình, tâm hồn thi vị, tác giả đã vẽ nên bức tranh về đất nước một cách khái quát ở từng thời điểm. Và bao trùm lên toàn bộ bài thơ là tình yêu, niềm tự hào mãnh liệt của con người dành cho mảnh đất hình chữ S.
Trước hết, đất nước hiện lên qua khung cảnh mùa thu Hà Nội năm xưa:
"Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới".
Cụm từ "Sáng năm xưa" gợi ra hình ảnh về một buổi sáng trời thu với tiết trời trong lành, mát mẻ. Trong bầu không khí ấy, gió nhẹ nhàng thổi, hòa cùng hương cốm mới. Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh sắc yên bình của mảnh đất ngàn năm văn hiến. Từ đó, khéo léo bày tỏ tình cảm nhớ thương "Tôi nhớ những ngày thu đã xa". Câu thơ là sự chuyển mạch hết sức nhịp nhàng. Nguyễn Đình Thi đưa độc giả trở về những ngày đầu kháng chiến:
"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may"
Trong hoài niệm của nhân vật trữ tình, thu Hà Nội thật thơ mộng và đẹp đẽ. Sáng sớm, bầu không khí thường se se lạnh, xao xác hơi thở của gió heo may. Không gian thành phố được mở rộng nhờ hình ảnh "những phố dài". Trên nền bức tranh thu, con người xuất hiện với tâm thế "Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đây". Mạch thơ có sự thay đổi, giọng thơ thiết tha mang âm hưởng bâng khuâng. Con người ra đi "đầu không ngoảnh lại" nhưng vẫn cảm thấy sau lưng lá vàng rơi đầy trên thềm. Từng bước chân bước đi một cách dứt khoát, vững vàng song trong lòng còn quyến luyến, bịn rịn. Như vậy, ở khổ thơ này, nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Qua đấy, dựng lên bức tranh thu cổ kính từ chính những không gian, hình ảnh, màu sắc, hương vị quen thuộc, đặc trưng của thành phố Hà Nội.
Từ mùa thu hoài niệm, Nguyễn Đình Thi quay trở lại với mùa thu thực tại:
"Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha"
Câu thơ ngắn gọn 5 chữ, nhịp thơ nhanh, giọng thơ khỏe khoắn, hồ hởi như một tiếng reo ca trước sự đổi thay của đất nước. Cụm từ "khác rồi" nhấn mạnh vào những biến chuyển ấy. Giờ đây, bức tranh thu được mở rộng, trải dài về không gian với hình ảnh "rừng tre", "núi đồi". Đứng giữa thiên nhiên bao la, "tôi" - nhân vật trữ tình cảm thấy hân hoan, vui sướng khi chứng kiến cảnh mùa thu "thay áo mới". Cảnh tượng ấy càng thêm tươi đẹp nhờ tiếng cười nói rộn rã. Dường như, niềm hạnh phúc đang bao trùm lên tất cả mọi thứ, từ cảnh vật cho đến con người.
Bức tranh đất nước rộng lớn được tô điểm thông qua những hình ảnh:
"Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa"
Sự thay đổi trong cách xưng hô từ "tôi" thành "chúng ta" cùng biện pháp điệp ngữ "đây là", liệt kê "trời xanh", "núi rừng", "những cánh đồng", "những ngả đường", "những dòng sông" đã thể hiện niềm hạnh phúc trào dâng khi con người được làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh. Hàng loạt tính từ "xanh", "thơm ngát", "bát ngát", "đỏ" được sử dụng, góp phần tô đậm cảnh sắc thiên nhiên quê hương, Tổ quốc thân yêu.
Định nghĩa về "đất nước", nhà thơ khéo léo giải thích qua mấy vần thơ:
"Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về"
Nước Nam ta được dựng xây, bảo vệ từ chính đôi tay bé nhỏ của cha ông. Ngàn năm trôi qua, bờ cõi, lãnh thổ nước nhà vẫn luôn toàn vẹn. Ấy là nhờ có những con người chưa bao giờ chịu cúi đầu, khuất phục. Họ chính là người làm nên một Việt Nam giàu truyền thống văn hóa. Khổ thơ toát lên niềm tự hào, kiêu hãnh về đất nước ngoan cường, về những giá trị tốt đẹp, quý báu vẫn sáng ngời trong suốt bốn nghìn năm lịch sử.
Bài thơ tiếp tục có sự chuyển mạch khi nhà thơ miêu tả đất nước trong những năm tháng đau thương:
"Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều"
Khi viết về quân thù, giọng thơ vô cùng đanh thép, hùng hồn, chứa đầy phẫn uất. Chiến tranh đã biến những cánh đồng yên bình, trù phú thành biển máu; biến bầu trời trong xanh thành cảnh tượng hoang tàn "dây thép gai đâm nát trời chiều". Chưa dừng lại ở đó, lũ giặc còn làm ra những tội ác ghê gớm "Bát cơm chan đầy nước mắt/ Bay còn giằng khỏi miệng ta". Đứng trước cảnh quê hương đất nước bị giày xéo, người con không khỏi xót xa, căm tức.
Dẫu có đau khổ, khó khăn trăm ngàn nhưng đất nước vẫn mạnh mẽ đứng lên:
"Từ những năm đau thương chiến tranh
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn"
Trong các khổ thơ tiếp, tác giả dùng hàng loạt từ ngữ "ngời lên", "bật lên", "không khóa được", "không bắn được", "đứng lên" để nhấn mạnh vào sức mạnh, tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc ta. Dù hoàn cảnh có khắc nghiệt "ngày nắng đốt theo đêm mưa giội", có chông gai "mỗi bước đường mỗi bước hi sinh" thì nhân dân Việt Nam vẫn vững lòng, vững chí.
Cuối cùng, khép lại tác phẩm là hình ảnh:
"Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"
Bốn câu thơ được viết bằng thể thơ năm chữ, nhịp điệu dồn dập đã tạo nên âm hưởng hào hùng như khúc tráng ca. Từ đây, đất nước hiện lên sáng ngời trên cái nền máu lửa, bùn lầy, trong một không gian ầm ầm súng nổ. Hai câu thơ kết chính là hình ảnh khái quát, tượng trưng cho đất nước đứng lên từ gian khổ và tỏa sáng ngời ngời.
Bằng ngôn ngữ giàu sức gợi, hình ảnh thơ gần gũi, thân thuộc, sử dụng thành công biện pháp so sánh, điệp ngữ, Nguyễn Đình Thi đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh Việt Nam hiên ngang, bất khuất và kiên trung. Qua đó, bộc lộ niềm ngợi ca, tự hào thiết tha về đất nước tươi đẹp, giàu truyền thống.
Không thể phủ nhận, "Đất nước" là sự kết hợp hài hòa giữa nhiều yếu tố: chất trữ tình với chất chính luận, cảm xúc cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc. Đọc bài thơ, ta càng thêm ngưỡng mộ Nguyễn Đình Thi - một ngòi bút tài hoa, một tâm hồn sâu sắc.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 25
Nguyễn Đình Thi - một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình... mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gũi với mọi người.
Tác phẩm nổi bật trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Được sáng tác từ 1948 - 1955, sự kết hợp hai bài thơ Đêm mít tinh và Sáng mát trong như sáng năm xưa đã giúp tác giả hình thành thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. Đất nước thực sự là cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu đã xa, một mùa thu với những kí ức và hình ảnh đã thuộc về quá khứ:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm.
Chỉ với một câu thơ gió thổi mùa thu hương cốm mới đã đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió heo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay. Câu thơ tôi nhớ những mùa thu đã xa giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đầy tâm sự người đọc hướng về hiện tại:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ánh sáng. Nhưng ảnh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ trong lòng Hà Nội. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh?
Ở đây, còn gợi thêm một hình ảnh nữa về đặc trưng của Hà Nội: những phố dài và thêm một nét tinh tế nữa của nhà thơ, đó là việc sử dụng từ láy xao xác. Tất cả đều gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh. Sự xao xác của lá thu hay là nỗi tâm sự đong đầy. Hình ảnh gió xao xác kết hợp với hình ảnh con phố dài đã tạo ra sự thu hút, sự sâu thẳm.
Và thật đột ngột, mạch cảm xúc của tác giả thay đổi, với hình ảnh người ra đi. Câu thơ thứ ba như một cái hất đầu ngạo nghễ, một sự quyết tâm đầy kiêu hãnh với chí lớn mang trong người. Nhưng câu thơ cuối lại là một tình cảm sâu lắng, trực tiếp, cảm xúc được dàn trải đều qua trang giấy qua cách ngắt nhịp của tác giả.
Có người nói, hình ảnh của Hà Nội đã thu lại trong câu thơ cuối: thềm nắng lá rơi đầy. Câu thơ đẹp và giàu sắc thái thẩm mĩ. Bức tranh thu Hà Nội thấm đầy nắng, gợi nên sắc thái quyến rũ trong tâm trí người ra đi. Mà có khi làm sao mà đi nổi khi một Hà Nội đẹp thế, quyến rũ như thế cứ níu chân chẳng cho đi, làm sao không khỏi mềm lòng. Đó là mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của bây giờ, của hiện tại rực rỡ hơn, tươi mát hơn. Và tự hào hơn trong lòng tác giả:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Một lời khẳng định đầy kiêu hãnh, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự đổi mới với mùa thu xưa. Chữ khác dường như không chỉ là sự khác biệt về thời gian, không gian như xưa, nay mà còn là sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn giản là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi.
Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì vậy mà thu có vẻ ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hoà hơn. Giữa sự thay đổi của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cùng hoà vào tiếng vui chung. Con người giao hoà với đất trời và vũ trụ. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm hạnh phúc tột độ.
Ở đây, không gian thu được mở rộng khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới, vẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió (thổi vào rừng tre) phấp phới như muốn giữ trọn niềm vui của con người vào thiên nhiên, vũ trụ. Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam, vẻ đẹp của Việt Nam, niềm vui của thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca tột độ. Và trong xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Mùa thu như được nhân hoá và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc? Mùa thu ở đây vừa có nét tươi trong trẻo của một mùa thu muôn đời, lại vừa có sự phấn khởi, vui mừng.
Câu thơ đã gợi ra tất cả xúc cảm, sâu lắng, huyên náo... tạo ra sự giao hoà giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập. Và cảm xúc của nhà thơ như trải dài qua khổ thơ:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Các câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp mạnh mẽ, ngắn đã tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn đầy niềm tự hào. Nguyễn Đình Thi bây giờ như đang là một hướng dẫn viên, giới thiệu và tỏ bày với mọi người về cảnh sắc quê hương. Đây là núi rừng, trời xanh, kia là cánh đồng, ngả đường, xa hơn nữa là dòng sông.
Tất cả như đang phơi bày vẻ đẹp, sự mỹ lệ vốn có của bản thân. Hay nói đúng hơn, đây là sự háo hức, tất cả sự hãnh diện, vinh dự với tư cách là người làm chủ. Tác giả nhấn mạnh vào quan hệ từ của như muốn khẳng định sự sở hữu và quyền tự chủ của bản thân.
Ở đây đã có sự thay đổi về cách xưng hô, có sự hoà nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, của người nghệ sĩ với cái chung của cả dân tộc. Nguyễn Đình Thi không chỉ nói tiếng nói chung của mình mà còn nói tiếng nói chung của cả dân tộc, của mọi người bằng hai tiếng chúng ta đầy kiêu hãnh.
Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyện quan niệm chúng ta. Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung của chúng ta, chỉ có thời đại mới, chúng ta mới có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới.
Cảm xúc dâng trào khi nghĩ về sự tự do, độc lập, niềm vui mừng hân hoan bỗng nhiên trầm lắng trong sự suy tưởng:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Nhịp thơ bỗng thay đổi, mang xúc cảm trầm lắng, ẩn chứa thái độ thành kính thiêng liêng, hướng người đọc trở về quá khứ lịch sử của quê hương. Khi con người ta vui mừng, hân hoan về một chiến thắng thì bao giờ, sau đó cùng sẽ là những giây phút trầm mặc suy nghĩ về cái giá của chiến thắng đó. Tứ thơ của Nguyễn Đình Thi về đất nước tạo nên một chiều sâu khôn cùng.
Đất nước ở đây không chỉ được cảm nhận ở hiện tại mà được nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ. Quá khứ là bệ phóng, điểm tựa của hiện tại. Theo ông, đất nước ở đây là đất nước của những con người bất tử, chưa bao giờ khuất phục. Chữ rì rầm kết hợp với từ vọng tạo ra sự hô ứng, cộng hưởng kì diệu. Như thể người cảm nhận được cái cao cả, thiêng liêng, sự gần gũi và thân thiết.
Nguyễn Đình Thi như muốn nêu lên bài học lịch sử cha ông, đạo lý của cha ông được ghi tạc lại trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, ngỡ như lời trò chuyện, tâm tình, thú vị của những người xưa. Tạo nên xúc cảm thiêng liêng thành kính nhưng lại thân thiết và gần gũi. Khổ thơ như khúc nhạc trầm trong bản Instrumental (hoà tan) của Đất nước.
Khi suy nghĩ về tự do độc lập, về bài học lịch sử của cha ông, Nguyễn Đình Thi hướng dòng suy nghĩ của mình về quá khứ đấu tranh của dân tộc, với những khốc liệt vốn có của nó:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Những câu thơ tràn ngập cảm xúc đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, có thể coi là hai câu đặc sắc thể hiện tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội hoạ. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc: cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời... gợi ra một nỗi đau khôn cùng, vẻ đẹp bình yên của làng quê đã bị lãng quên, cái yên ả của không gian không còn.
Thay vào đó là hình ảnh dây thép gai với tội ác chồng chất của kẻ thù và cánh đồng máu đầy sự đau thương. Câu thơ diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh và tội ác ghê gớm của quân thù, bộc lộ một nỗi đau lên đến tận cùng. Nỗi đau càng lớn, niềm căm thù càng sâu sắc.
Cái tài của tác giả là tự gửi vào thơ chất điện ảnh và hội họa đặc tả. Đọc thơ, người đọc như thấy trước mắt mình là cả hiện thực khốc liệt của những năm tháng khổ đau một cách tường tận và chi tiết. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi như một máy quay phim tài ba và đặc biệt giúp cho người đọc nhận ra một bức tranh ngập đầy máu của chiến tranh. Nỗi đau của con người và màu của ráng chiều đổ xuống gợi nên một màu tang tóc, đau thương.
Màu máu đỏ là thay thế hoàn toàn cho sắc xanh của bầu trời, màu vàng óng của cánh đồng lúa. Nhưng ở hai câu sau, mạch cảm xúc có sự chuyển đổi. Tác giả nói tới hình ảnh của người chiến sĩ ra trận từ trong đau thương, đã quyết tâm nung nấu một ý chí mạnh mẽ. Câu thơ giàu chất hiện thực và chất lãng mạn. Vẽ nên hình ảnh sống động của người lính kiên cường bất khuất, lại vừa sâu lắng và lãng mạn của bài thơ.
Và ở khổ thơ tiếp, Nguyễn Đình Thi đã lí giải sâu xa về sức sống, tinh thần ý chí chiến đấu của người dân:
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Câu thơ ngắt nhịp khoẻ, rắn rỏi, thể hiện sâu sắc niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc. Từ ngời và bật được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự tỏa sáng, sức sống của dân tộc. Vẻ đẹp quê hương, sức sống dân tộc được khơi nguồn sâu xa từ năm tháng thương đau. Từ hình ảnh con người bình dị, chân lấm tay bùn đã vươn lên thành anh hùng dũng cảm trong hành động, kiên định trong ý chí. Tứ thơ gợi ra chiều sâu của suy tưởng ở khổ thơ tiếp:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da
Khổ thơ này đã khắc hoạ trực tiếp tội ác của kẻ thù với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh bát cơm chan đầy nước mắt là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mồ hôi hoà quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau, sự xót xa của con người trong nô lệ. Cách xưng hô đối lập giữa một bên là chính nghĩa: ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa: bọn thằng, đứa., như bao căm thù và uất hận được dồn lại.
Nhưng cho dù chiến tranh có khốc liệt như thế nào, dù quân thù tàn bạo đến đâu, chúng ta vẫn mang trong mình một khí phách anh hùng:
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Cấu trúc không, đầy như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng làm ở Việt Nam và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc. Nhịp thơ mạnh mẽ, đanh thép làm cho câu thơ trở nên giàu sức biểu tượng. Sự đối lập giữa hai hình ảnh thơ xiềng xích và trời đầy chim, đất đầy hoa đã thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân, khí phách anh hùng của dân tộc bất chấp sự tàn khốc của chiến tranh và quân thù. Thể hiện sự tin tưởng vào chiến thắng sau này.
Nguyễn Đình Thi đã chạm đến mạch nguồn sâu xa của truyền thống dân tộc và đã khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam không chỉ có khí phách anh hùng mà còn có khát vọng tự do và hòa bình. Ở hai khổ tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đã miêu tả cuộc chiến đấu của nhân dân ta:
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Đó là niềm tin và hi vọng chiến thắng mạnh mẽ trong lòng tác giả. Nhịp thơ như giục giã, vẫy gọi mỗi con người trên con đường ra trận, tạo ra âm hưởng hào hùng của những con người anh hùng trong một đất nước anh hùng. Đó còn là sự tự hào của tác giả, những câu thơ đậm chất lãng mạn và sử thi, thể hiện một cảm xúc tươi mới đầy tin tưởng, tràn đầy âm hưởng hào hùng.
Hai hình ảnh nắng đốt và mưa dội là quá trình gian khổ thăng trầm của dân tộc. Song từ trong gian khổ, khó khăn ấy, dân tộc vẫn đứng lên. Hai câu thơ kết giàu hình ảnh tráng lệ. Hình ảnh trán cháy rực và bát ngát ánh bình minh gợi lên nét vẽ rạng ngời về những đứa con của Tổ quốc dù có hi sinh, vất vả thì vẫn quyết tâm giành lại độc lập. Hình ảnh rất độc đáo, diễn tả sự thăng hoa của cảm xúc, niềm tin được thắp sáng.
Người đọc hình dung được hình ảnh ngọn lửa của thất vọng. Câu thơ cuối tràn đầy kiêu hãnh, niềm vui, khát vọng bùng nổ hi vọng. Sự bát ngát của trời đất là sự bát ngát của niềm tin con người. Và giờ đây, qua bao nhiêu khó khăn, khốc liệt, bao hi sinh, đất nước ta đã được độc lập:
Súng nổ rung trời giận giữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Hai câu đầu tái hiện sinh động không khí của cuộc chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Việt Nam. Câu thơ thứ nhất ngập tràn tiếng rung, khiến người đọc cảm nhận được sự dữ dội. Động từ "rung" được dùng khá chính xác, không chỉ là sự rung chuyển, khuynh đảo mạnh mẽ mà còn diễn tả niềm căm thù tột cùng đối với quân thù.
Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp nhân hoá và so sánh tài tình, ông khiến cho người đọc, ngay lập tức sau khi đọc song hai câu đầu, cảm nhận được sự khốc liệt và sự mạnh mẽ, khí thế của quân đội ta phải ngập trời đất. Đến tận cuối bài thơ, tác giả mới gọi tên Việt Nam với sự tự do, tự chủ, sự kiêu hãnh.
Ông cảm nhận được hình ảnh đất nước trong lòng. Từ máu lửa và bùn đen đã bật dậy và sáng lòa, rực rỡ huy hoàng. Câu thơ giàu giá trị biểu tượng và tính khái quát, cộng với tính nghệ thuật rất cao. Nhịp thơ 2/2/2 vận động khỏe khoắn, sự vươn lên của dân tộc bởi một sức sống kỳ vĩ và bất tử.
Bài thơ kết thúc bằng ánh sáng, thể hiện niềm tin và khát vọng mạnh mẽ, vinh quang. Đất nước đã ghi lại và vẽ nên một hình ảnh đất nước Việt Nam với bao thăng trầm, khói lửa để đến được ngày độc lập. Đất nước xứng đáng được coi là cuốn biên niên sử nước ta bằng thơ. Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sử thi và sáng tạo nghệ thuật tài năng của Nguyễn Đình Thi.
Phân tích, đánh giá bài thơ Đất nước - mẫu 26
Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước!
Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội: không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian và quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm.
Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội:
Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ… là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cỏ.
(Hà Nội ba sáu phố phường)
Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn (Nhớ mùa thu Hà Nội) cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ… làm thành nét thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành:
Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ / mái ngói thâm nâu / … Hà Nội mùa thu / mùa thu Hà Nội / mùa hoa sữa về / thơm từng cơn gió / mùa cốm xanh về / thơm bàn tay nhỏ / cốm sữa vỉa hè / thơm bước chân qua…
Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội thấm thía xao xác khi ở xa trông về. Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng mây bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước” (Nguyễn Đình Thi – Bài thơ Đất nước )
Dòng thơ thứ ba: Tôi nhớ những ngày thu đã xa là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra:
Tôi còn nhớ những ngày thu đã xa
Ở đây, còn có một lý do nữa: Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp: Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em. Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ tình cảm và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lý, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ.
Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phố dài) . Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động.
Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyễn Đình Thi không chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là một phần trong tâm hồn nhà thơ.
Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng là rơi đầy
Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đo khi rút khỏi Hà Nội… Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ: Hình ảnh ấy gần với người ra đi của Thâm Tâm:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng…
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
(Tống biệt hành)
Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể – người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nói mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc, ngày 14.12.1983)
Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11.8.1991)
Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phất phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phất phới, áo mới). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phất phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hoà nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng.
Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ây. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý: Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực, lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Còn nhớ, trước năm 1945, Nguyễn Đình Thi từng viết:
Trời xanh ơi hỡi xanh không nói
Hồn tam muốn hiểu chẳng cùng cho
Khi ấy, “trời xanh” là hình ảnh đẹp, nhưng ngoài tầm với và sự hiểu biết của con người.
Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyễn Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam.
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dâng cho đất nước.
Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại:
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh độc đáo khác nhau về mối quan hệ ấy. Từ Huy Cận:
Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tưới vạn dặm đường xuân
(Các vị La Hán chùa Tây Phương)
đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của nước, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn… rồi Nguyễn Khoa Điềm ở những năm tháng đánh Mỹ:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em, đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
(Mặt đường khát vọng)
Phần hai bài thơ tập trung vào một ý lớn: đất nước từ trong đau thương căm hờn đứng lên ngời sáng.
Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng thủ pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh, trong ánh chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở – gây một tức tối căm giận”. Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người viết: chiến tranh tàn phá tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự huỷ hoại, với cái ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có những cái nhìn tinh tế và đau xót ấy:
Có làng trung đoàn ta đi qua
Máu đông in dấu giày đinh giặc
Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai
Chiếc tả đầu giường đang cháy dở
(Quang Dũng- Những làng đi qua,1947)
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau
(Vũ Cao – Núi đôi, 1956)
Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến sĩ:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
được đặt ở cùng khổ thơ, tạo thành kết cấu: ngoài/trong. Hai câu đầu là ngoại cảnh, hai câu sau là tâm trạng. Giữa dòng thơ còn có sự đối xứng khác:
những / bỗng
nung nấu/bồn chồn
Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sữ: tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tình cảm có vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dấu. Sự xử lý mang tính lịch sử của thời kỳ ấy: tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không có tình cảm riêng.
5 khổ thơ tiếp tập trung thể hiện suy ngẫm của tác giả về đất nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh như những anh hùng của thời đại mới. Tứ thơ phát triển theo hướng suy tưởng nên hình tượng thiên về khái quát, tượng trưng, với những biểu tượng quen thuộc, bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa… Nhiều câu thơ nặng diễn dịch ý, mang tính chính luận. Ý thơ dựa vào các mảng cảm xúc, tâm trạng, mảng nọ đặt cạnh mảng kia để bộc lộ chủ đề, Nguyễn Đình Thi không dùng các câu nối, trái lại là những hình ảnh rời làm thành khối. Chúng liên kết được với nhau là nhờ mạch cảm xúc, suy nghĩ của tác giả.
Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài Đất nước là những hình ảnh, những ý mới:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
…
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ chỉ các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn vào phần vị ngữ:
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
…
Đã ngời lên nét mặt quê hương
…
Đã bật lên những tiếng căm hờn
…
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
…
Đứa đề cổ đứa lột da…
Các câu thơ với hình ảnh tương phản (xiềng xích / trời, súng đạn / lòng dân) khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa dội…) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm trong thời gian dài. Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng ở thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mới hình thành, nhất là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự đứng dậy hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước . Bốn câu thơ thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập tạp âm hưởng dõng dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu giặc…Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến trường Điện Biên Phủ”.
Đất nước là bài thơ thành công hơn cả của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về những chủ đề lớn hơn. Đó cũng là bài thơ hay của nền thơ Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm kết hợp được nhiều yếu tố: hình ảnh chân thực và chất suy tưởng, khái quát, cảm xúc, suy ngẫm của cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc về đất nước. Có lẽ vì thế, trải qua nhiều năm tháng, Đất nước vẫn là tiếng thơ hào sảng trong tâm hồn người Việt Nam.
Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:
- Viết bài luận thuyết phục người khác từ bỏ quan niệm có tiền là có tất cả.
- Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm Hồi trống Cổ Thành (La Quán Trung).
- Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh).
- Viết bài văn nghị luận phân tích, đánh giá đoạn trích Kiêu binh nổi loạn (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô gia văn phái).
- Hãy viết bài văn phân tích, đánh giá bài thơ Lính đảo hát tình ca (Trần Đăng Khoa).
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:
- Soạn văn 10 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 10 Cánh diều (ngắn nhất)
- Soạn văn 10 Cánh diều (siêu ngắn)
- Giải Chuyên đề học tập Văn 10 Cánh diều
- Giải lớp 10 Cánh diều (các môn học)
- Giải lớp 10 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 10 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều