20+ Thuyết minh về chùa (điểm cao)
Bài văn Thuyết minh về chùa lớp 8 hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn Thuyết minh về chùa cổ nổi tiếng ở Việt Nam hay hơn.
- Thuyết minh về chùa Thiên Mụ
- Dàn ý Thuyết minh về chùa
- Thuyết minh về chùa Hương
- Thuyết minh về chùa Yên Tử
- Thuyết minh về chùa Một Cột
- Thuyết minh về chùa Trấn Quốc
- Thuyết minh về chùa Keo
- Thuyết minh về chùa Tam Chúc
- Thuyết minh về chùa Tây Phương
- Thuyết minh về chùa Hương
- Thuyết minh về chùa Dâu
- Thuyết minh về chùa (mẫu khác)
Thuyết minh về chùa Thiên Mụ
Mảnh đất cố đô Huế thâm trầm, sâu lắng ghi dấu về triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta với những công trình lăng tẩm, đền đài và nền nhã nhạc cung đình Huế. Khi nhắc đến thời kì hưng thịnh của Phật giáo Đàng trong, người ta thường gợi nhớ đến ngôi chùa Thiên Mụ - một vẻ đẹp thanh tịnh bên dòng sông Hương thơ mộng.
Chùa Thiên Mụ nằm trên một ngọn đồi (đồi Hà Khê) bên phía tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km. Theo truyền thuyết khi chúa Nguyễn Hoàng đi dọc bờ sông Hương xem xét địa thế nơi đây để chuẩn bị cơ đồ nghiệp lớn, xây dựng giang sơn đã nhìn ra ngọn đồi Hà Khê với thế đất hình con rồng quay đầu nhìn lại, Chúa đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đồi, hướng về phía sông Hương đặt tên là "Thiên Mụ". Năm Tân Sửu 1601 chùa Thiên Mụ chính thức được khởi công xây dựng dưới thời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng, giai đoạn 1691 - 1725 chùa được xây dựng quy mô hơn và trùng tu với nhiều công trình kiến trúc đồ sộ như: Điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh,... còn rất nhiều công trình không giữ được đến ngày nay.
Đến năm 1844 chùa lại được kiến trúc lại với ngôi tháp bát giác Phước Duyên, đình Hương Nguyện. Trận bão lịch sử năm 1904 quét qua đã tàn phá chùa với nhiều công trình hư hỏng mãi đến năm 1907 mới được xây dựng lại nhưng không được như trước. Qua nhiều đợt kiến trúc, trùng tu, ngày nay chùa vẫn giữ được nhiều những công trình quy mô, đồ sộ và nhiều những cổ vật quý giá như tượng phật, những bức hoành phi câu đối. Tháp Phước Duyên trở thành biểu tượng của chùa Thiên Mụ, tháp cao 21m gồm 7 tầng, mỗi tầng đều có tượng Phật. Lầu Tàng Kinh là nơi chứa 1000 bộ kinh Phật mà chúa Quốc đã cho người sang Trung Quốc để mua. Khuôn viên chùa khá rộng, quang đãng và thoáng mát với những vườn hoa cỏ, hòn non bộ, hàng loạt những bia đá ghi lịch sử xây dựng chùa và các bài thơ văn của nhà vua, đặc biệt là bài thơ "Thiên Mụ chung thanh" do vua Thiệu Trị sáng tác được đặt ở cổng chùa. Không có gì bàn cãi khi chùa Thiên Mụ được coi là ngôi chùa đẹp nhất xứ Huế nói riêng và đàng trong nói chung, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa tâm linh thờ Phật mà đã từng trở thành nơi lập đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn. Tại chùa Thiên Mụ còn lưu giữ di vật chiếc ô tô của cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức để lại sau khi châm lửa tự thiêu trên đường phản đối chính sách đàn áp Phật giáo.
Là ngôi chùa thu hút nhiều khách du lịch nhất ở Huế, chùa Thiên Mụ mang trong mình những dấu ấn lịch sử, vẻ đẹp thanh tịnh, trầm mặc. Đến với xứ Huế ta cảm nhận được nét mộng mơ, trữ tình, và đến thăm chùa Thiên Mụ ta sẽ được lắng đọng tâm hồn, tìm lại bình yên giữa cuộc sống xô bồ nhộn nhịp.
Dàn ý Thuyết minh về chùa
1. Mở bài
– Giới thiệu khái quát quần thể di tích chùa Hương.
2. Thân bài
* Lịch sử hình thành:
– Xây dựng vào cuối thế kỷ thế kỷ 17
– Tọa lạc tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, bên cạnh sông Đáy.
* Kết cấu kiến trúc:
– Gồm hàng chục ngôi chùa lớn thờ Phật, nhiều ngôi đền thờ thần, thánh cùng các ngôi đình thờ khác.
– Lối kiến trúc kết hợp giữa phong cảnh thiên nhiên với hệ thống hang động tự nhiên và các kiến trúc chùa chiền cổ xưa, tạo nên một không gian vừa mang vẻ đẹp trữ tình thơ mộng vừa mang vẻ thoát tục, thiêng liêng chốn cửa Phật.
– Các kiến trúc chính:
+ Chùa Ngoài, tên khác là chùa Trò hay chùa Thiên Trù, bên trong ngôi chùa này có tháp chuông.
+ Trung tâm của khu di tích chính là chùa Hương, hay còn gọi là chùa Trong, chùa Hương tích, đây không phải là ngôi chùa nhân tạo mà nó thực tế là một hang động lớn.
+ Suối Giai Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quynh hay chùa Tuyết Quynh.
* Lễ hội chùa Hương:
– Là một trong những lễ hội lớn nhất ở miền Bắc nước ta, bắt đầu từ ngày 6/2 âm lịch hằng năm, kết thúc vào khoảng hạ tuần tháng âm lịch, trong đó chính thức diễn ra trong khoảng 4 ngày từ ngày 15 đến 18 tháng 2 âm lịch.
– Gồm phần lễ đơn giản, đậm chất Thiền và phần hội với các hoạt động chèo thuyền vãn cảnh, hát văn, hát chèo,…
* Chùa Hương trong văn học:
– Di tích chùa Hương và lễ hội chùa Hương đã ăn sâu vào tiềm thức và văn hóa tín ngưỡng tôn sùng đạo phật, đạo giáo và cả nho học của người dân Việt Nam.
– Với vẻ đẹp hiếm có bởi sự kết hợp tinh tế giữa cảnh thiên nhiên và các công trình kiến trúc nhân tạo đã đưa nơi đây trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các văn nhân, thi sĩ xưa và nay.
3. Kết bài
– Nêu cảm nghĩ cá nhân về quần thể di tích chùa Hương.
Thuyết minh về chùa Hương
Tôi có nghe một bài hát mở đầu bằng những câu hát rất dễ thương, tươi tắn như sau:
"Hôm qua em đi chùa Hương
Hoa cỏ còn mờ hơi sương
Cùng thầy mẹ em vấn đầu soi gương."
Tôi cũng lại đọc một bài hát nói của Chu Mạnh Trinh rằng:
"Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?"
Tựu chung lại cả hai tác phẩm ấy đều nói về một địa điểm vô cùng nổi tiếng mà theo cách gọi của dân gian là Chùa Hương, nhưng chính xác nó không chỉ là một ngôi chùa riêng biệt mà là một quần thể di tích văn hóa - tôn giáo lớn gọi là Hương Sơn có tuổi đời lên tới vài trăm năm từ thuở vua Lê-chúa Trịnh. Chùa Hương không chỉ mang trong mình vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình tựa như chốn bồng lai tiên cảnh, mà còn mang trong mình sự thanh tịnh, không khí thâm nghiêm của chốn thiền tu. Một lần bước chân đến Hương Sơn dường như khách lữ hành cũng bỏ lại sau lưng mọi nỗi lo trần thế để được tịnh tâm ngắm nhìn phong cảnh núi non, đền chùa, nơi được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động" này.
Quần thể di tích chùa Hương được xây dựng vào cuối thế kỷ thế kỷ 17 khoảng những năm 1680-1704, việc ra đời của ngôi chùa cũng có nhiều sự tích, nhiều người thắc mắc rằng tại sao lại có hai ngôi chùa tên Hương Tích, một ở Hà Tĩnh và một ở Hà Nội. Chuyện kể rằng, thuở xưa các phi tần, mỹ nữ của chúa quê gốc phần lớn ở vùng Thanh Nghệ Tĩnh nên cứ mỗi độ xuân về các bà thường hay ngược về Hà Tĩnh để trẩy hội chùa Hương, dâng hương kính Phật. Đó vốn là chuyện tốt đẹp thế nhưng chúa Trịnh lại có mối nghi ngại, sợ phi tần chịu đường xa cực khổ, và vài lý do tế nhị thế nên chúa quyết định cho xây dựng thêm một chùa Hương Tích ở tại Hà Nội để cho các bà trẩy hội được gần hơn. Hiện nay, quần thể di tích này tọa lạc tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, bên cạnh sông Đáy, trong đó trung tâm cụm di tích là chùa Hương nằm trong động Hương Tích, người ta còn gọi là chùa Hương Tích hoặc chùa Trong.
Về kết cấu kiến trúc, quần thể di tích Hương Sơn là nơi quy tụ của hàng chục ngôi chùa lớn thờ Phật, nhiều ngôi đền thờ thần, thánh cùng các ngôi đình thờ khác, điểm độc đáo của khu di tích chính là lối kiến trúc kết hợp giữa phong cảnh thiên nhiên núi xanh, nước biếc, mây trắng lượn lờ cùng với hệ thống hang động tự nhiên và các kiến trúc chùa chiền cổ xưa, tạo nên một không gian vừa mang vẻ đẹp trữ tình thơ mộng vừa mang vẻ thoát tục, thiêng liêng chốn cửa Phật. Men dọc theo thung lũng suối Yến là những công trình kiến trúc tiêu biểu của chùa Hương bao gồm chùa Ngoài, tên khác là chùa Trò hay chùa Thiên Trù. Bên trong ngôi chùa này có tháp chuông, với lối kiến trúc độc đáo gồm ba tầng mái, trên tầng cao nhất lộ ra hai đầu hồi tam giác, Chu Mạnh Trinh có câu thơ nhắc về tháp chuông này như sau "Thoảng bên tai một tiếng chày kình/Khách tang hải giật mình trong giấc mộng". Trung tâm của khu di tích chính là chùa Hương, hay còn gọi là chùa Trong, chùa Hương tích, đây không phải là ngôi chùa nhân tạo mà nó thực tế là một hang động lớn, vách động có khắc 5 chữ là bút tích cảu chúa Trịnh Sâm "Nam thiên đệ nhất động", thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ của ngài với vẻ đẹp của chốn Hương Sơn. Ngoài hai bộ phận kiến trúc chính thì, còn các công trình kiến trúc khác có thể tóm lược trong 2 câu thơ sau:
"Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh"
Trong đó, suối Giải Oan và chùa Cửa Võng là hai địa điểm nằm ở dọc quãng đường từ chùa Thiên Trù đến chùa Hương Tích, am Phật Tích tương truyền là nơi Quan Thế m bồ tát độ kiếp, động Tuyết Quynh hay chùa Tuyết Quynh là một ngôi chùa nhỏ tọa lạc gần với động Hương Tích.
Hội chùa Hương chính là một trong những lễ hội lớn nhất ở miền Bắc nước ta, mỗi năm thu hút đến hàng triệu du khách cùng phật tử khắp mọi miền tổ quốc đổ về đây trẩy hội, thăm quan và dâng hương kính phật. Lễ hội bắt đầu từ ngày 6/2 âm lịch hằng năm, kết thúc vào khoảng hạ tuần tháng âm lịch, trong đó chính thức diễn ra trong khoảng 4 ngày từ ngày 15 đến 18 tháng 2 âm lịch. Phù hợp với không khí linh thiêng và thanh tịnh chốn cửa Phật thế nên phần lễ của lễ hội chùa Hương diễn ra một cách đơn giản, biểu hiện rõ rệt nhất ấy là làn khói xanh nghi ngút, hương thơm thoang thoảng của nhang đèn không bao giờ dứt trong những ngày hội, khiến cho không khí nơi đây lại càng thêm phần thanh tao, nhã nhặn. Người đi dâng lễ cũng chỉ chuẩn bị một ít nhang đèn, hoa quả và đồ ăn chay đặt lên điện thờ, thắp nén hương thơm, thành tâm khấn vái đúng với quy cách của một Phật tử giác ngộ rồi đi thăm thú cảnh sắc xung quanh thanh lọc tâm hồn hoặc tham gia vào phần hội. Phần hội thì cũng giống nhiều cách lễ hội phổ biến khác, gồm có lễ rước và lễ văn, sau đó là các hoạt động vui chơi nhẹ nhàng bên ngoài như bơi thuyền vãn cảnh, hát chèo, hát văn,... Có thể thấy rằng cả phần lễ và phần hội của lễ hội chùa Hương đều thiên về sự nhã nhặn, tinh tế, không quá nô nức, ồn ào phá hỏng cảnh thiêng liêng, mỗi một con người bước chân đến nơi đây đều hưởng một niềm vui hiếm có, ấy là cảm giác thanh tịnh tâm hồn, niềm vui sướng khi bắt gặp cảnh sắc độc đáo tựa chốn bồng lai tiên cảnh.
Di tích chùa Hương và lễ hội chùa Hương đã ăn sâu vào tiềm thức và văn hóa tín ngưỡng tôn sùng đạo phật, đạo giáo và cả nho học của người dân Việt Nam, đặc biệt với vẻ đẹp hiếm có bởi sự kết hợp tinh tế giữa cảnh thiên nhiên và các công trình kiến trúc nhân tạo đã đưa nơi đây trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các văn nhân, thi sĩ xưa và nay. Trong bài tôi đã nhắc đến nhiều câu thơ có trong Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh, một bài hát nói được xem là áng văn kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam, ngoài ra có thể nhắc đến Hồ Xuân Hương với bài vịnh Động Hương Tích, hay Tản Đà với bài thơ Chơi chùa Hương Tích. Trong âm nhạc có một bài hát nổi tiếng, với giai điệu tươi vui, mang âm hưởng dân ca ấy là bài Em đi chùa Hương, phổ nhạc từ thơ của Nguyễn Nhược Pháp, từng một thời được phát đi phát lại trên ra-đi-ô, mà thế hệ ông bà ta vẫn thuộc trong lòng.
Phong cảnh chùa Hương có lẽ rằng vẫn còn đẹp và đặc sắc hơn tất cả những gì mà thơ ca đã vẽ nên, bởi chỉ có dùng chính đôi mắt, đôi tai và tâm hồn thanh tịnh thì con người ta mới có thể cảm nhận hết được vẻ đẹp kỳ diệu ấy, thứ mà chẳng giấy bút nào viết nên được. Nếu ai có dịp ghé thăm Hà Nội một lần, hãy ghé thăm quần thể di tích Hương Sơn một lần để cảm nhận được cái vẻ thơ mộng trữ tình của trời mây non nước kết hợp với nét thâm nghiêm, thanh tịnh chốn thiền tu, được thế có lẽ cuộc đời chẳng còn gì sung sướng hơn.
Thuyết minh về chùa Yên Tử
Quảng Ninh được mệnh danh là "Đất tổ Phật giáo Việt Nam" và gắn liền với Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Nhắc đến Quảng Ninh ta không thể không nhắc đến di tích chùa Yên Tử nổi tiếng. Chùa Yên Tử bao gồm một hệ thống các chùa, am, với những giá trị lịch sử lâu đời gắn liền với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nơi đây được ví như chốn bồng lai tiên cảnh, là một trong những địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách thập phương trong và ngoài nước.
Núi Yên Tử (Uông Bí - Quảng Ninh) là một ngọn núi cao và đẹp, nổi tiếng được mệnh danh là "đệ nhất linh sơn" hay "Phật sơn" của nước ta, non thiêng Yên Tử nổi tiếng nhất là quần thể chùa Yên Tử với văn hóa tâm linh và các di tích lịch sử về Phật giáo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dòng chảy lịch sử Phật giáo tại Yên Tử bắt nguồn từ khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho vua Trần Anh Tông, với lòng thành hướng về chốn non cao tầm đạo, năm 1299 vua Trần Nhân Tông đến mảnh đất Yên Tử, bắt đầu cuộc sống tu hành theo 12 điều khổ hạnh, cho xây dựng hệ thống các chùa chiền, am, tháp, mỗi chùa lại có những sự tích riêng. Danh thắng Yên Tử với đỉnh núi cao 1068m so với mực nước biển nên đỉnh núi lúc nào cũng có mây mù bao phủ, lại thêm phong cảnh thiên nhiên hữu tình, đa dạng và phong phú các loài động, thực vật, tiêu biểu có các cây đại thụ như cây tùng cổ 700 tuổi, cây đại cổ, các động vật tiêu biểu như cu li lớn, khỉ mặt đỏ, sơn dương, rồng đất,...Xung quanh quần thể chùa Yên Tử là các di tích và thắng cảnh nổi tiếng như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, Khu di tích lịch sử nhà Trần. Chúng ta bắt đầu hành trình lên đỉnh Yên Tử tại dòng suối Giải Oan và ngôi chùa Giải Oan, chính Phật Hoàng đã đặt tên Giải Oan nhằm giúp siêu độ cho những cung nữ theo hầu vua đã nhảy xuống suối tự vẫn khi vua không cho theo hầu hạ. Chùa Giải Oan vốn linh thiêng có tiếng, lưng tựa vách núi, mặt hướng ra dòng suối róc rách đêm ngày, đứng dưới chùa Giải Oan nhìn lên sẽ thấy ngọn núi Yên Tử cao vời vợi. Chùa Hoa Yên được coi là ngôi chùa chính của hệ thống chùa Yên Tử, chùa ở lưng chừng núi, thế rất vững chãi, cảnh trí nơi đây vô cùng tuyệt đẹp với trăm hoa đua nở, những đám mây dường như cũng kết thành những đóa hoa giăng trước cửa chùa. Con đường hành hương lên đỉnh Yên Tử luôn có những bậc đá và hàng cây xanh hai bên đường, hàng Tùng cổ thụ 700 tuổi với rễ bám sâu vào vách núi, tán rộng khổng lồ che rợm đường cho người phật tử. Vườn tháp trung tâm của chùa Yên Tử là khu Tháp Tổ gồm 64 ngọn tháp và mộ, ngoài ra còn có các am như am Ngự Dược, am Thung là nơi nghiên cứu, bào chế và sản xuất thuốc từ các loại thảo dược trên núi Yên Tử. Đặc biệt nhất là chùa Một Mái nằm ẩn sâu trong hang núi, chỉ phô ra bên ngoài nửa mái, cảnh chùa tĩnh lặng, thanh thoát dường như là một thế giới khác cách xa nơi trần tục. Ngoài các di tích chùa, am, tháp, nơi đây còn có Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử - thiền viện lớn nhất Việt Nam với kiến trúc uy nghiêm, khang trang và bề thế. Ngôi chùa cao nhất của Yên Tử là chùa Đồng, Phật Hoàng đã chọn nơi đây để tĩnh thiền, toàn bộ kết cấu đều được làm bằng đồng kể cả đồ thờ tự nhằm thích ứng được với khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nếu bạn không muốn phải đi bộ đến 6 cây số đường rừng núi gập ghềnh đá để lên đỉnh Yên Tử thì ngày nay bạn có thể đi cáp treo, hệ thống cáp treo hiện đại gồm hai chặng, từ chân núi lên đến chùa Hoa Yên và từ chùa Hoa Yên lên đến chùa Đồng, khi đi bằng cáp treo du khách cũng sẽ được ngắm toàn cảnh vùng núi Yên Tử. Với ý nghĩa là "Đất tổ Phật giáo Việt Nam", chùa Yên Tử là một trong những thắng tích Phật giáo được lựa chọn để các đại biểu tham dự lễ Phật đản trên khắp thế giới đến tham quan, chiêm bái. Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm từ ngày mùng 10 tháng Giêng và kéo dài đến hết tháng 3, mỗi dịp lễ hội thu hút hàng triệu du khách thập phương đến tham quan, lễ bái và cầu an.
Chùa Yên Tử hay quần thể di tích Phật giáo Yên Tử nói chung là một niềm tự hào đối với mỗi người dân Việt Nam, đó là minh chứng cho nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc ta, về với Yên Tử như được trở về cội nguồn, về miền đất tổ của nền Phật giáo nước nhà.
Thuyết minh về chùa Một Cột
Thủ đô Hà Nội vốn đã nổi danh ngàn năm là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị, quân sự hàng đầu của nước ta. Xa xưa đã được Lý Công Uẩn hết mực cất nhắc, xem trọng, ra chiếu dời đô từ Đại La về để ổn định đất nước sau 1000 năm loạn lạc, đồng thời về sau nơi đây cũng trở thành đế kinh nơi cư ngụ của đế vương nước ta nhiều đời. Chính vì thế mà mảnh đất có thế "rồng cuộn hổ ngồi" này đã mang trong mình nhiều dấu tích lịch sử đáng quý, tiêu biểu cho sự phát triển phồn thịnh của đất nước ở nhiều lĩnh vực. Trong đó ở lĩnh vực văn hóa, sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo cũng để lại nhiều công trình kiến trúc có giá trị, tiêu biểu nhất phải kể đến chùa Một Cột.
Chùa Một Cột hay còn có các tên gọi khác là chùa Mật, Nhất Trụ Tháp, Liên Hoa Đài, Diên Hựu tự, là một trong những công trình kiến trúc có thiết kế độc đáo nhất nước ta còn tồn tại đến ngày hôm nay (đã trải qua một lần đại tu vào năm 1955 sau trận đánh phá của Pháp). Hiện nay chùa tọa lạc tại phố Chùa Một Cột, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, người đứng đầu là trụ trì Đại đức Thích Tâm Kiên. Ngôi chùa được khởi công xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tông vào khoảng mùa đông tháng mười (âm lịch) năm Kỷ Sửu 1049, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất. Kiến trúc độc đáo của ngôi chùa tương truyền là xuất phát từ giấc mơ của vua Lý Thái Tông, khi nhà vua trong một lần nằm ngủ đã mơ thấy được Phật bà Quan m dắt tay đi lên tòa sen. Chính vì thế vua đã theo lời khuyên của nhà sư Thiền Tuệ, xây một ngôi chùa dáng hình giống đài sen, dựng trên một trụ lớn nằm giữa hồ sen. Đến nay qua nhiều triều đại, chùa Một Cột ít nhiều được tu sửa, nâng cấp nhiều lần, tuy nhiên vẫn luôn giữa được đúng kiến trúc, cũng như dáng vẻ của nó từ thời Lý. Ngày nay chùa Một Cột được xếp vào dạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia, đồng thời được Tổ chức Kỷ lục Châu Á công nhận là "Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất" trong khu vực.
Sở dĩ nói chùa Một Cột là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất là bởi kiến trúc 1 cột của nó, theo nhiều tài liệu lịch sử thì lối kiến trúc này đã xuất hiện từ trước đời nhà Lý, xuất hiện trong một số công trình phật giáo phục vụ tu hành của vương tôn quý tộc và trở thành một thực tế nghệ thuật cổ truyền đặc trưng cho nền Phật giáo tại Việt Nam. Tổng thể ngôi chùa được dựng bằng gỗ, bên trong đặt tượng Quan Thế m để thờ tự. Ngôi chùa đã được tu sửa hiện nay có một đài Liên Hoa hình vuông, mỗi cạnh dài 3m, mái cong, lợp ngói. Ở mỗi góc mái đầu đao có trang trí hình Xi Vẫn, trên nóc mái trang trí hình "lưỡng long chầu nguyệt", tức là hai con rồng cùng chầu mặt trăng. Trong văn hóa Việt nói riêng và văn hóa phương Đông nói chung, rồng kết hợp với trăng trang trí trên các đình, đền, chùa là biểu trưng cho sức mạnh thần thánh, uy nghiêm, chứa đựng nhiều những giá trị văn hóa, ý nghĩa tâm linh, trí tuệ và mong ước của con người trong các nền văn minh cổ xưa truyền thống. Toàn bộ bộ Liên Hoa đài được đặt, dựng cân đối trên một cột bằng đá có đường kính 1,2m bao gồm hai khối đá lớn chồng khít lên nhau. Từ định cột người ta thiết kế một hệ thống các dầm đỡ bằng gỗ tỏa ra tám góc như hình đài hoa làm điểm tựa cho ngôi đài ở trên. Tổng thể kiến trúc chùa Một Cột nhìn từ xa trông giống như một bông hoa sen lớn vươn lên khỏi mặt nước, mang một vẻ đẹp trong sạch, trong cao, trở thành một biểu tượng cho phật pháp, cũng như biểu tượng văn hóa Việt Nam. Bởi hoa sen từ bao đời nay vẫn được xem là quốc hoa của dân tộc, chứa đựng những giá trị văn hóa sâu rộng không chỉ trong lĩnh vực tu hành mà còn có gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân ta.
Về ý nghĩa chùa Một Cột ngày nay, theo nhiều triết học gia phương Đông thì lối kiến độc đáo này là sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố m - Dương, trong đó đài vuông đóng vai trò là âm, cột tròn đóng vai trò là dương, đặc trưng cho quy luật hài hòa của tạo hóa trời - đất, âm - dương, ngũ hành, sinh tử của vạn vật. Đồng thời sự xuất hiện của công trình này cũng là biểu hiện cho tấm lòng tôn sùng và sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo ở nước ta dưới triều Lý. Ngày nay chùa Một Cột trở thành một trong những biểu tượng quan trọng và tiêu biểu nhất của thủ đô Hà Nội, là nơi thu hút hàng vạn khách du lịch tham quan hàng năm. Cũng là niềm tự hào của dân tộc về những dấu tích vẻ vang của đất nước nước ta hàng ngàn năm trước, là biểu tượng cao quý cho tâm hồn người Việt ta từ ngàn đời.
Nếu có dịp ghé thăm thủ đô Hà Nội, các bạn đừng bỏ lỡ cơ hội được đến thăm di tích lịch sử - văn hóa đậm truyền thống dân tộc này một lần nhé. Hãy đến đây để được tận hưởng bầu không khí liêng thiêng của "đóa sen ngàn năm" mà vẫn không ngừng tỏa những hương thơm của thanh sạch, an nhiên, đồng thời luôn giữ trong mình vẻ đẹp cổ kính, lưu giữ sự tài hoa, sáng tạo của lớp người thiên cổ này.
Thuyết minh về chùa Trấn Quốc
Nhắc đến chùa Hà Nội không thể không nhắc đến chùa Trấn Quốc - một trong những ngôi chùa cổ lịch sử lâu đời nhất nơi đây. Chùa Trấn Quốc cũng là một trong những niềm tự hào của người dân Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Theo sử sách ghi chép lại thì chùa Trấn Quốc vốn có tên là chùa Khải Quốc, bắt đầu dựng từ thời Lý Nam Đế tại một thôn quê gần bờ sông Hồng. Chùa được dời vào và dựng trên nền xưa của cung Thúy Hoa, điện Hàn Nguyên vào năm 1615. Những năm về sau, được sự hỗ trợ của vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị cùng đóng góp của nhân dân chùa được trùng tu lại, đặt thêm chuông tượng và mở rộng diện tích. Năm 1842, vua Thiệu Trị quyết định đổi tên chùa thánh Trấn Bắc. Đến đời vua Lê Hy Tông, chùa đổi tên là Trần Quốc và được dùng cho đến ngày nay.
Chùa Trấn Quốc nằm trên đường Thanh Niên, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Chùa tọa lạc tại một hòn đảo phía đông Tây Hồ của một hồ nước ngọt rộng lớn.
Phía trên của chùa là hai câu đố được viết bằng chữ Nôm: "Vang tai xe ngựa qua đường tục/ Mở mặt non sông đứng cửa thiền", ngoài ra, con được ghi thêm ba chữ Phương điện môn ở trung tâm.
Chùa có kết cấu được thiết kế theo những nguyên tắc, trình tự nhất định. Có ba ngôi chính với nhiều lớp nhà, được nối thành hình chữ công, bao gồm Tiền đường, thượng điện và nhà thiêu hương. Tiền đường của chùa Trấn Quốc hướng về phía Tây. Có hai dãy hành lang dài ở hai bên nhà thượng điện và nhà thiêu hương. Có một gác chuông ba gian nằm trên trục sánh chính, ở phía sau thượng điện.
Bên trong chùa Trấn Quốc còn có các nhà tổ, nhà bia và một số mộ tháp cổ. Mộ tháp cổ nổi bật trong khuôn viên của chùa là Bảo tháp lục độ đài sen. Bao tháp cổ cao hơn 15m với 11 tầng. Mỗi tầng đều được đặt những pho tượng Phật bà trong các ô cửa hình vòm. Đỉnh tháp được gọi là Cửu phẩm liên hoa vì nó là đài sen 9 tầng, được làm từ đá quý. Đối xứng với bảo tháp là một cây bồ đề lớn với ý nghĩa: "Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp".
Chùa Trấn Quốc không chỉ là ngôi chùa cổ có kiến trúc độc đáo mà còn là một biểu tượng của nền văn hóa lâu đời của người dân Hà Nội nói riêng, của Việt Nam nói chung. Hơn nữa, ngôi chùa còn là một trong những minh chứng rõ nét cho sự phát triển Phật giáo ở Việt Nam.
Có thể thấy rằng, kiến trúc chùa có sự hài hòa giữa tính uy nghiêm, cổ kính với sự thanh nhã, yên bình của cảnh quan. Nhớ vậy mà nơi đây thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan, đặc biệt là các tín đồ phật tử. Hy vọng rằng trong tương lai những nét văn hóa của chùa sẽ được lưu giữ và phát triển hơn nữa.
Thuyết minh về chùa Keo
Chùa Keo, một khu chùa cổ tuyệt vời, một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam.
Chùa Keo tên chữ là chùa Thần Quang, nằm ở Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông, đến nay đã nhiều lần trùng tu.
Trong những di tích còn lại thì chùa Keo là một di tích có quy mô to lớn. Có lẽ ở nước ta chưa có một ngôi chùa nào lại được tới 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước là 154 gian) làm toàn bằng gỗ lim. Những con đường dài hàng trăm mét, lát toàn đá xanh rộng gần 2m và 350 vây cột lim lớn nhỏ, đều được kê trên những hòn đá tảng lớn, cổ bồng, chạm cánh sen.
Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc lớn, gồm cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Ngoài ra, là hai dãy hành lang dài hai bên, từ chùa Hộ trở vào.
Tổ chức không gian kiến trúc ở đây thật tài tình, phức tạp một cách trật tự, theo kiểu "tiền Phật hậu Thần”. Khu chùa phía trước và khu đền thờ Không Lộ thiền sư phía sau. Bố cục kiến trúc dường như là phá quy luật, như việc đặt gác chuông ba tầng vào cuối dây chuyền của quần thể. Kiến trúc của gác chuông là sự đồ sộ của hình khối, sự phong phú hài hòa của nhịp điệu và chi tiết, chỉ ba tầng cao 11,06m nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Bốn cây cột lim chính cao suốt hai tầng, cùng với hệ thống cột niên và những hàng lan can con tiện, đã được kết nối khéo léo. Các tảng cột gác chuông thuần bằng đá, tạc kiểu hình đôn lớn, chạm hình hoa sen kép rất đẹp. Độc đáo nhất là hệ thống dui bay, tầng tầng lớp lớp vươn lên đỡ mái. Các đầu dui bay phía ngoài vươn ra, choãi xuống theo chiều mái, làm tăng thêm chiều cao của công trình. Đứng xa trông như 200 cánh tay Phật Bà Quan Âm từ mái tầng hai, tầng ba vươn ra vẫy chào khách thập phượng! Tôi đã thấy những người khách nước ngoài dừng lại hàng giờ trước tòa gác chuông ba tầng này, sửng sốt và ngắm nghía mãi tầng tầng lớp lớp mái cong cổ kính và hàng ngàn bộ phận chạm trổ tinh vi, mà ngay đến những người thợ lành nghề nhất được mời đến trùng tu cũng không biết hết tên gọi!
Trong gác chuông có treo hai quả chuông niên đại: Hoàng Triều Cảnh Thịnh Tứ Niên, một di tích quý về sự nghiệp “văn trị” của triều Tây Sơn trên đất Thái Bình. Quai đỉnh chuông đúc từ thời Tây Sơn rất đẹp, chạm hình hai con rồng nối đuôi nhau. Ớ gác một chùa Keo có một khánh đá rất to, không biết đục từ bao giờ, tiếng khánh âm vang.
Hầu như bất cứ bộ phận kiến trúc nào của chùa Keo cũng thấy dấu vết của những bàn tay chạm khắc khéo léo. Ngay ở tam quan nội, một công trình tưởng như nhỏ, nhưng hai cánh cửa trung quan cung được chạm khắc rất công phu. Cánh cửa cao 2,4m, mỗi cánh rộng 1,2m, được chạm một đôi rồng chầu bán nguyệt. Rồng ở đây to, khỏe. Con lớn vươn cổ lên, miệng ngậm hạt châu, râu bờm uốn sóng, rồi choái ra thành những hình lưỡi mác, ngực rồng ưỡn về phía trước, đuôi vắt lên đỉnh tấm cửa. Hàng trăm đám mây lửa ngùn ngụt bốc lên. Rồng như bay lượn trong biển lửa. Có lẽ những người thợ tài ba muốn ký thác những dấu vết của lịch sử trong bức chạm gỗ này. Khép hai cánh cửa lại, chúng ta nhìn thấy một bức tranh hoàn chỉnh: rồng chầu nguyệt. Cái khéo của bức chạm này là trên cùng một mặt phẳng, người thợ đã chạm những vết nổi, nét chìm, con rồng to, rồng nhỏ, gần xa, như cả một bầy rồng bay thong dong trong mây.
Hàng năm, “xuân thu nhị kỳ” vào ngày 4 tháng giêng và trung tuần tháng 9 âm lịch, khách thập phương cuồn cuộn đổ về dự hội chùa. Từ xa, trên đê sông Hồng, mọi người đã nhìn thấy lá cờ thần to bằng gian nhà, bay trên đỉnh cột cờ cao 21m. Cột cờ lớn chốt vào bệ đá sâu hàng mét, vậy mà cờ bay còn rúng cả cột!
Thuyết minh về chùa Tam Chúc
Khu du lịch Tam Chúc (Ba Sao Hà Nam) được mệnh danh là 'Vịnh Hạ Long trên cạn', nơi khoác trên mình vẻ ngút ngàn và đẹp như cõi mộng, nơi mà du khách đến sẽ cảm nhận được sự thuần khiết, thanh bình và yên ả đến lạ thường.
Quần thể khu du lịch Tam Chúc tọa lạc trên mảnh đất Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. Nơi đây được Thủ tướng công nhận là Khu du lịch quốc gia theo Quyết định số 201/QĐ-TTG ngày 22/01/2013. Đặc biệt, Chùa Tam Chúc sẽ là nơi đăng cai Đại lễ Vesak năm 2019 (Đại hội Phật giáo thế giới) tổ chức vào tháng 5/2019 và cũng là thời điểm Chùa được khánh thành giai đoạn I.
Chùa Tam Chúc có tổng diện tích gần 5.000 ha, bao gồm hồ nước: 1.000 ha, núi đá rừng tự nhiên: 3.000 ha, các thung lũng: 1.000 ha. Đây là ngôi chùa vô cùng đặc biệt với cảnh quan hùng vĩ: Tiền lục nhạn, hậu thất tinh (tiền lục nhạn nghĩa là mặt trước chùa có 6 quả núi giữa lòng hồ, tương truyền rằng đây là 6 quả chuông của nhà trời đưa xuống; hậu thất tinh là đằng sau có 7 ngọn núi có thể phát sáng khi có ánh sáng vào ban đêm).
Ngôi chùa được thi công bởi rất nhiều những người thợ thủ công lành nghề của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Năm 2000, khi khảo sát làm thủy lợi lòng hồ Tam Chúc, công nhân xây dựng đã phát hiện ra rất nhiều dấu tích các hiện vật liên quan đến chùa Tam Chúc xưa. Từ các hiện vật khảo cổ, bước đầu có thể kết luận rằng chùa Tam Chúc đã có niên đại trên 1000 năm.
Trải qua rất nhiều năm tháng, giờ chỉ còn lại những di tích cột gỗ, cột đá, xà đá còn vùi lấp ở nền móng cũ, trong đó có những cột gỗ có đường kính trên 1m, những xà đá, cột đá rất lớn mà chúng ta chưa thể hiểu được ông cha ta trước kia dựng chùa bằng cách nào với kích thước lớn như vậy.
Ngôi chùa Tam Chúc được xây dựng lại có tới 12.000 bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật, được những người Hồi giáo Indonesia tạc bằng đá núi lửa ở Indonesia sau đó đưa sang Việt Nam.
Chùa Tam Chúc đang thiết lập một vườn cột kinh khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn. Hiện tại đang dựng được khoảng 36 cột kinh do các nghệ nhân lành nghề Việt Nam tạc và dựng. Đây sẽ là vườn cột kinh lớn nhất thế giới khi hoàn thành.
Trên trục thần đạo Chùa Tam Chúc gồm: Chùa Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan Âm, Cổng Tam Quan, Phòng họp Quốc tế. Những ngôi điện, các pho tượng Phật tại chùa Tam Chúc có diện tích, kích thước rất lớn.
Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh đang được thi công bởi những nghệ nhân Ấn Độ giáo và sẽ sớm hoàn thành trong năm 2018.
Điện Tam Thế có chiều cao 39m, diện tích sàn 5.400m², giúp cho 5.000 Phật tử có thể hành lễ cùng một lúc. Bên dưới Điện Tam Thế là Điện Pháp chủ với pho tượng bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn.
Phòng họp Quốc tế nổi trên mặt hồ, có diện tích sàn 10.000m², có sức chứa 3.500 chỗ ngồi và Cổng Tam Quan đang trong quá trình thi công. Dự tính, thời gian hoàn thành quần thể chùa vào năm 2048. Từ khi khởi công đến khi hoàn thành là 50 năm.
Quần thể khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao thực sự là một điểm đến tâm linh hấp dẫn, bởi nơi đây là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa nghìn năm tuổi với vẻ hùng vĩ của non nước bao la. Đặc biệt, không khí trong lành và tiếng chim hót líu lo giữa núi rừng rộng lớn là điều mà bất kỳ du khách nào cũng sẽ không thể nào quên khi đặt chân đến mảnh đất này.
Hiện nay, hệ thống giao thông kết nối Hà Nội và Hà Nam vô cùng thuận lợi. Chùa Tam Chúc cách chùa Bái Đính 30km và cách chùa Hương 4,5km tạo thành một quần thể ”Tam giác vàng” du lịch tâm linh, nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của khách du lịch trong và ngoài nước. Với mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn giữ gìn cảnh quan môi trường sinh thái bền vững, trong thời gian không xa, khu du lịch Tam Chúc sẽ là điểm nhấn và được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh Hà Nam.
Thuyết minh về chùa Tây Phương
Núi Câu Lậu, tọa lạc tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội, là nơi chứa đựng một di tích lịch sử lớn của Việt Nam, đó chính là danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương. Chùa Tây Phương nằm trên đỉnh núi Câu Lậu, một ngọn núi cao vút, được bao bọc bởi khu rừng xanh um tùm. Ngôi chùa này có diện tích rộng và được bao phủ bởi cảnh quan thiên nhiên hoang sơ và mộc mạc, với tiếng chim hót râm ran, tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp.
Chùa Tây Phương đã tồn tại từ rất lâu, và trong quá trình lịch sử, nó đã trải qua nhiều sự trùng tu và bảo tồn. Vào thời Mạc, chùa đã được trùng tu theo nền kiến trúc cổ xưa của cha ông xây dựng. Năm 1554, chùa tiếp tục được trùng tu để tạo nên vẻ đẹp và tính cách dân tộc sâu sắc hơn. Năm 1632, thượng điện ba gian, hậu cung và hành lang 20 gian được xây dựng thêm vào. Vào năm 1660, trong thời kỳ Tây Sơn, chùa được Tây Đô Vương Trịnh Lạc tu sửa và đổi tên thành "Tây Phương cổ tự," một cái tên truyền thống và đẹp đẽ. Điều đặc biệt là tên này đã được giữ nguyên suốt hàng thế kỷ mà không trải qua bất kỳ cuộc tu sửa nào khác. Thành quả của việc trùng tu và bảo tồn này là kiến trúc độc đáo và bền vững của chùa Tây Phương đã được lưu giữ đến ngày nay.
Chùa Tây Phương nổi tiếng với nhiều tác phẩm điêu khắc gỗ đẹp và tráng lệ, biểu tượng các vị La Hán và thần thánh Phật. Các tượng này thường được tạo bằng gỗ và được sơn vàng, làm cho chúng trở nên trang nghiêm và trọng thể hơn. Nhiều pho tượng tại chùa Tây Phương có chiều cao vượt qua người, như pho Kim Cương, Hộ pháp, cao 3 mét, thể hiện tính cách và nỗi khổ riêng của từng người. Đặc biệt, chùa còn có 18 tượng La Hán được tạo bằng người thật, biểu hiện từng vị La Hán trong các tư thế khác nhau, đầy đặc sắc và sinh động.
Lối kiến trúc của chùa Tây Phương là một điểm đặc biệt khác. Mái chùa cong cong, các góc mái hình rồng uốn lượn, cột gỗ được kê trên đá xanh với hình ảnh cánh sen khắc trên cột, và các đầu mái được tạo thành như hoa lá và hình rồng bay. Từ xa, chùa Tây Phương trông như một ngọn núi xanh um tùm, với mái chùa nổi bật lên như một cổ xưa trù phú.
Chùa Tây Phương không chỉ là một di tích lịch sử quan trọng mà còn là một điểm đến thu hút du khách từ khắp nơi. Vào ngày 6 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngày hội chính của chùa, hàng ngàn du khách đổ về để tham gia lễ hội và tôn vinh Phật. Với kiến trúc cổ kính và ý nghĩa lịch sử sâu sắc, chùa Tây Phương đã được công nhận là di tích văn hóa cấp quốc gia vào năm 1962 và thu hút sự quan tâm và kính trọng của người dân Việt Nam và du khách quốc tế.
Thuyết minh về chùa Hương
Chùa Hương một danh lam thắng cảnh nổi tiếng, khi nhắc đến chùa Hương ai cũng sẽ nhớ đến các lễ hội, trò chơi tổ chức hàng năm tại đây thu hút rất nhiều du khách và các phật tử từ khắp mọi miền đất nước tham gia. Chùa Hương nằm ở vị trí xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ và bay thuộc Thành phố Hà Nội. Chùa Hương được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVI, trải qua các cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp đã bị tàn phá. Năm 1988, chùa Hương được tu sửa bởi Thượng tọa Thích Viên Thành, ngày nay Chùa Hương dù đã được khôi phục và tu sửa những đã có những thay đổi, khó lòng được như xưa.
Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác từ chân đền đến đỉnh đền, trong thung lũng suối Yến, người hành hương và khách du lịch thường đi theo các tuyến đường khác nhau để đi thăm quan và lễ phật. Tuyến chính là từ bến Yến, đi thuyền đến bến Trò. Du khách cũng có thể đi bộ theo con đường ven chân núi.
Các khách thập phương khi thăm quan, khi đi đường từ bến Yến đến bến Trò sẽ phải ghé đền Trình trên núi Ngũ Nhạc, diện tích đền này không lớn nhưng ngôi đền đang thờ một vị thần núi. Trên dòng suối Yến có cây cầu gỗ được gọi tên là Cầu Hội. Và từ chân cầu đi vào bên trái có thể đi vào ngôi chùa Thanh sơn trong động núi.
Khi đến chùa Thiên Trù, các du khách sẽ phải ghé đến núi Tiên, trong núi Tiên đó lại có chùa Tiên. Trong chùa Tiên hiện tại có 5 pho tượng phật bằng đá do những người thợ đá ở Hà Nam làm vào năm 1907 dựa theo truyền thuyết Bà Chúa Ba Diệu Thiện đã đắc đạo thành Quan Thế Âm Bồ Tát ở Hương Sơn. Giữa đường đi từ chùa Thiên Trù đến động Hương Tích là chùa Giải Oan, ở đây có giếng nước trong vắt gọi là “Thiên nhiên thanh trì”. Gần chùa là động Tuyết Kinh và am Phật Tích.
Lễ hội chùa Hương sẽ thường diễn ra vào ngày mùng 6 tháng Giêng và kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Đến ngày lễ sẽ có hàng triệu phật tử và các du khách từ khắp các nơi đến trẩy hội. Lễ hội này còn có ngồi thuyền và có thể thả mình vào chốn thần tiên. Ngoài ra khi tham gia vào lễ hội còn có lễ hội đua thuyền diễn ra hàng năm.
Chùa Hương với cảnh sắc đẹp tự nhiên, du khách khi tham qua như lạc vào tiên cảnh, nơi đây thu hút nhiều phật tử và các du khách đến khám phá và thành kính cầu mong những điều tốt lành cho bản thân và gia đình trong cuộc sống.
Thuyết minh về chùa Dâu
Trong lòng người Việt Nam, mỗi ngôi chùa đều có vị trí vô cùng quan trọng. Đó là bởi vì mỗi ngôi chùa luôn gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng của nhân dân ta. Vào đầu năm mới, mọi người thường có thói quen đi chùa cầu may mắn. Một trong những điểm đến thu hút nhiều khách du lịch chính là chùa Dâu. Đây là một ngôi chùa với nhiều giá trị lịch sử văn hóa.
Chùa Dâu hay còn được biết đến với một tên gọi khác đó là chùa Diên Ứng, Pháp Vân, Tân Cổ tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách thủ đô Hà Nội khoảng 30 km. Đây là một ngôi chùa có lịch sử hình thành xa xưa nhất trong những ngôi chùa của Việt Nam, được khởi lập vào năm 187 và hoàn thành năm 226 vào thế kỷ 2 sau Công Nguyên. Chùa có tên gọi chùa Dâu là bởi chùa nằm ở vùng dâu, tức khu vực Luy Lâu thời thuộc Hán. Trải qua thời gian, đến năm 1313 chùa được xây dựng lại và được tiếp tục trùng tu.
Về kiến trúc, chùa được thiết kế với bốn dãy thông với nhau bao gồm: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường là nơi thờ Hộ Pháp, tám vị Kim Cương. Thiêu Hương thờ tượng Cửu Long và các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử và Mạc Đĩnh Chi. Khu Thượng điện được sử dụng thờ Bà Dâu và Bà Đậu. Tại khu chùa phía sau có thờ các tượng như Bồ Tát, Tam Thế Đức Ông, Thánh Tăng…Đặc điểm của những pho tượng thờ ở nơi đây vô cùng uy nghi và trầm mặc. Ấn tượng nhất có thể nói đến là tượng Bà Dâu, tượng có độ cao khoảng gần 2m, màu đồng với gương mặt đẹp và nốt ruồi to đậm giữa trán. Bên cạnh tượng Bà Dâu là hai tượng Kim Đồng Ngọc Nữ. Giữa sân của ngôi chùa chính là Tháp Hòa Phong, đây là tháp được Mạc Đĩnh Chi cho xây dựng gồm chín tầng tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ. Trải qua ra sự tàn phá của thời gian cũng như những thăng trầm của lịch sử, hiện nay tòa tháp này chỉ còn ba tầng, tuy nhiên vẫn đem lại cảm giác uy nghiêm vững chãi. Mặt trước tháp là bảng khắc tên Hòa Phong, bên trong khu tháp này có một chuông bằng đồng và một chiếc chuông khánh được đúc vào những năm 1793 và 1817. Bên cạnh đó còn có tượng Thiên Vương trấn ở bốn góc tháp. Đằng trước tháp có một bia đá và bên trái có tượng một con cừu đá.
Hàng năm, ban quản lí khu di tích chùa Dâu đều tổ chức những lễ hội rất long trọng. Hội chùa Dâu được mở trong ba ngày từ mùng 7 đến mùng 9 âm lịch. Tại đây có một số hoạt động như rước kiệu Phật và những trò chơi dân gian truyền thống như múa trống, cướp nước, ngoài ra còn có một số hoạt động văn hóa bên lề như hát chầu văn hát chèo…
Chùa Dâu thu hút rất nhiều du khách bởi giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Người dân khắp mọi nơi đổ về chùa Dâu như một cuộc hành hương nhằm cầu mong phúc lành. Một yếu tố khiến chùa Dâu thu hút rất nhiều du khách du lịch đó chính bởi chùa là nơi rất linh thiêng. Trong lịch sử, vua Lý Thánh Tông khi về chùa Dâu cầu con đã gặp được Nguyên Phi Ỷ Lan. Đến với chùa Dâu, ngoài việc được chiêm ngưỡng ngôi chùa cổ kính, ta còn có cơ hội chiêm ngưỡng những bức tượng được đúc công phu. Chùa Dâu mang giá trị lịch sử vì ngôi chùa này gắn liền với rất nhiều những truyền thuyết dân gian về Mạc Đĩnh Chi hay về Hai Bà Trưng,....
Đến với chùa Dâu là đến với một nơi thanh lọc để tâm hồn ta trở nên hướng thiện hơn. Dù bị tàn phá bởi thời gian như thế nào chăng nữa thì ngôi chùa này vẫn trở thành một điểm đến du lịch, một niềm tự hào của người dân Kinh Bắc, cũng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Mỗi chúng ta cần có ý thức bảo vệ giữ gìn để ngôi chùa ấy có thể linh thiêng, còn mãi…
Thuyết minh về chùa - mẫu 11
Nói về văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những đền chùa cổ kính, linh thiêng mang nét đẹp đặc trưng, trầm lắng, nơi bày tỏ niềm thành kính, biết ơn với người xưa, với tín ngưỡng tôn giáo. Một trong những ngôi chùa cổ, nổi tiếng của nước ta phải kể đến chùa Hương _ danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.
Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời kỳ Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Thượng Toạ Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân.
Nơi đây gắn liền với với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo phật thoại xưa kể lại rằng người con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương nước Hương Lâm tên là Diệu Thiện chính là chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, trải qua nhiều thử thách, gian nan với chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật để cứu độ chúng sinh.
Dưới đôi bàn tay khéo léo của người xưa cùng với những nét đẹp tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, mà vẻ đẹp của chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến.
Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái.
Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên.
Ở lối xuống hang động có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán“Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá. Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương.
Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch.Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút.Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ.
Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo.
Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Ta có thể thấy phần lễ là tổng hợp toàn thể hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể những tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.
Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn.
Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc, phong cảnh chùa cùng với nét đặc sắc của ngày lễ mà chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển con người từ xa xưa đến ngày nay, cần được bảo tồn, duy trì và gìn giữ di sản mà ông cha ta để lại.
Như vậy, với những giá trị đó, chùa Hương chính là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với chùa Hương là đến với không gian thanh tịnh, sông chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống ngoài kia.
Thuyết minh về chùa - mẫu 12
Chùa Tây Phương một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội, một ngôi chùa mang giá trị nghệ thuật điêu khắc độc đáo và là nơi lưu trữ nhiều pho tượng Phật có giá trị.
Chùa có tên chữ là Sùng Phúc tự, nằm trong một khu vực có cảnh trí thanh tao, trên đỉnh đồi Câu Lậu ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất.
Theo những tài liệu sử cũ còn ghi lại, núi chùa Tây Phương tên cổ gọi là núi Ngưu Lĩnh. Theo truyền thuyết phong thủy, thềm núi Ba Vì về phía Nam có dãy núi đất chạy xuống huyện Quốc Oai tựa như đàn trâu, có một quả núi như quay lại đón nước sông Tích phát nguyên từ các dòng suối Ba Vì chảy xuống quả núi đó được gọi Ngưu Lĩnh sơn (núi con Trâu)- chính là núi chùa Tây Phương ngày nay. Chính vì thế, chùa Tây Phương hiện nay với kiểu kiến trúc cổ Việt Nam mang dáng dấp “thượng sơn lâu đài, hạ sơn lưu thủy”, là nơi địa linh của non sông đất nước ta.
Về lịch sử, theo nhiều tài liệu, Chùa Tây Phương được xây dựng từ lâu đời nhưng chùa do ai làm và làm từ bao giờ thì đến nay chưa xác minh được. Theo thời gian và do chiến tranh tàn phá, chùa đã nhiều lần được trùng tu vào các thế kỷ XVI, XVII, XVIII với các dấu mốc được ghi lại cho tới ngày nay. Năm 1554, chùa được xây lại trên nền cũ. Năm 1632, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là “Tây Phương Cổ Tự” đồng thời cho đúc một quả chuông nặng 200kg. Trong chiến tranh chống Pháp, chùa bị hư hỏng nặng và được các cơ quan chức năng tiến hành trùng tu. Khi tiến hành thi công dỡ ba ngôi chùa, người ta phát hiện thấy trên nóc giữa các ngôi chùa có những dòng chữ đục chìm vào gỗ, ghi lại niên đại làm chùa. Ở nóc ngôi chùa Thượng ghi: “Năm Giáp Dần quý đông tạo” nghĩa là năm Giáp Dần tháng 12 làm chùa. Ở nóc ngôi chùa Trung ghi “Giáp Dần quý đông cát nhật, Canh Tý mạnh thu cát nhật tu lý” nghĩa là năm Giáp Dần tháng 12 ngày tốt làm chùa, Năm Canh Tý tháng 7 ngày tốt tu sửa chùa. Ở nóc ngôi chùa Hạ ghi “Canh Tý trọng thu cát nhật tu lý” nghĩa là năm Canh Tý tháng 8 ngày tốt tu sửa chùa.
Từ chân núi để lên tới cổng chùa chính phải qua 239 bậc đá ong. Chùa gồm ba nếp nhà song song được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam gồm Chùa Hạ, chùa Trung, Chùa Thượng, tạo thành một quần thể uy nghi vững trãi. Mái chùa được lợp hai lớp ngói và trạm trổ tinh tế. Tường xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ để trần, kết hợp hài hòa với màu sắc của gỗ đá trong khuôn viên chùa. Các hình khối kiến trúc cộng với những đường nét chạm sắc tinh tế, tỉ mỉ đã tạo cho ngôi chùa thành một tổng thể hài hòa và hoàn mỹ.
Chùa Tây Phương còn là nơi tập trung nhiều pho tượng Phật đựơc coi là những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Theo một số tài liệu lịch sử, nguồn gốc ra đời của những pho tượng Phật trong chùa Tây Phương chính là hiện thực cuộc sống nghèo nàn khổ cực và nạn đói mà nhân dân phải chịu ở thế kỷ 18. Chùa có 72 pho tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng trong đó 18 pho tượng thuộc nhóm La Hán chính là hình tượng đã được các nghệ nhân điêu khắc mượn sự tích tu hành của các vị đệ tử Phật nhằm mô tả những con người sống trong xã hội đương thời. Dưới bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân gian, các pho tượng hiện ra mỗi người một vẻ, một phong cách khác nhau với những đường nét, hình khối,dáng điệu vô cùng sinh động. Mỗi pho tượng ở đây có sự hài hòa nội tâm và ngoại hình, mang biểu tượng một nỗi đau khôn nguôi của con người: buồn vui lẫn lộn, suy tưởng, giả say, thiếu ngủ…. Nét mặt khắc khổ từ bi, từng nếp nhăn trên vầng trán, từng mạch máu đường gân thớ thịt, khớp xương, đôi môi, con mắt đến trang phục xiêm y đều được bàn tay nghệ nhân khắc họa diệu kỳ. Chẳng thế mà thi sĩ Huy Cận, nhân khi về thăm Chùa đã sáng tác nên áng thơ nổi tiếng “Các vị La Hán Chùa Tây Phương”:
“Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương?”
Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm bộ tượng Tam Thế Phật, bộ tượng Di-đà Tam Tôn, tượng Tuyết Sơn, Đức Phật Di lặc, tượng Văn Thù Bồ Tát, tượng Phổ Hiền Bồ Tát, tượng Bát Bộ Kim Cương và 16 pho tượng Tổ. Pho tượng Tuyết Sơn thường được du khách đặc biệt chú ý vì đây là pho tượng miêu tả đức Phật thích ca trong thời kì khổ hạnh “đây vị xương trần chân với tay”, một pho tượng tĩnh lặng chìm trong suy tưởng.
Chùa Tây Phương là địa chỉ thăm quan hàng năm của rất nhiều Phật tử và khách vãng lai trên mọi miền Tổ quốc, trong đó đông đảo nhất phải kể tới dịp Hội Xuân. Hội chùa Tây Phương bắt đầu từ mồng 6 đến mồng 10 tháng 3 Âm lịch. Ca dao xưa còn ghi lại cảnh nô nức đến chùa:
“Nhớ ngày mồng sáu tháng ba,
Ăn cơm với cà đi hội chùa Tây”.
Vào dịp này, người dân Thạch Xá nơi có phương múa rối nước từ lâu đời thường tổ chức biểu diễn để phục vụ khách dự hội. Trải qua bao biến đổi của lịch sử, tượng La Hán, Kim Cương chùa Tây Phương đã để lại trong lòng mỗi du khách những ấn tượng sâu đậm về nền nghệ thuật cổ Việt Nam. Với giá trị độc đáo về mặt nghệ thuật kiến trúc và Phật học, chùa Tây Phương đã được Bộ Văn Hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia từ năm 1962.
Thuyết minh về chùa - mẫu 13
Chắc hẳn ai cũng biết đến chùa Hương một danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Hằng năm cứ đến mùng sáu tháng giêng sau tết Nguyên Đán nơi đây lại tổ chức lễ hội chùa Hương. Khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước, việt kiều, du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong mọi điều tốt lành và để đắm mình trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn.
Chùa Hương thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía tây nam. Từ đây đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, thẳng đến bến đục thì dừng. Du khách xuống đò, lướt theo dòng suối Yến Vĩ trong xanh giữa hai bên là cánh đồng lúa. Trước mắt là những dãy núi trung điệp đẹp vô cùng!
Có thể nói cái đẹp của Hương Sơn được tạo nên từ bàn tay khéo léo kì công của con người và sự ban tặng của mẹ thiên nhiên. Các ngôi chùa được xây rải rác trên triền núi đá vôi, thấp thoáng bên dưới là những rừng cây xanh thẳm. Từ chân núi đi ngược lên hàng ngàn bậc đá cheo leo,hành khách sẽ thắp nhang ở chùa ngoài rồi vào chùa trong, lên chùa Giải Oan, chùa Thiên Mụ,với động hình bồng, động Hương Tích. Chùa nào cũng cổ kính uy nghi ẩn hiện trong làn mờ mờ ảo ảo, tạo nên một bầu không khí huyền bí linh thiêng.Mỗi người đến đây đều mang theo một riêng nhưng tất cả mọi người đều cảm thấy trút bỏ được vướng bận hằng ngày, tất cả đều lâng thoải mái.
Trên con đường dốc quanh co, dòng người nối đuôi nhau, già trẻ, gái trai đủ mọi lứa tuổi, miền quê. Tất cả mọi người đều có được sự thân quen như người trong nhà trước câu “Nam mô A Di Đà Phật ”. Hương Sơn có rất nhiều động nhưng lớn nhất, kì thú nhất phải nói đến động Hương Tích. Lên đến đây, mọi mệt nhọc đều tan biến hết, trong lòng lâng lâng niềm hứng khởi. nơi đây hoa mơ nở trắng như tuyết điểm, hương thơm thoang thoảng trong gió. Tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách lúc gần lúc xa. Đứng tên cửa động, du khách hít căng lồng ngực không khí thơm, trong lành.
Được chúa Trịnh Xâm ca ngợi là “Nam Thiên đệ nhất động”. Từ bên ngoài, cửa động như miệng một con rồng khổng lồ ăn sâu vào trong lòng núi. Đáy rộng và phẳng có thể chứa được mấy trăm người. Ánh đèn nến lung linh huyền ảo. Những nhũ đá, cột muôn hình vạn trạng, lấp lánh bảy sắc cầu vồng.
Muốn tham quan được hết chùa Hương phải mất mấy ngày mới thăm hết được. Ngồi trong động Hình Bồng, lắng tai nghe tiếng gió tạo thành tiếng nhạc du dương trầm bổng ta sẽ được đắm mình vào trong cõi mộng. Trên đỉnh núi có một tảng đá lớn tương truyền dó là bàn cờ tiên. Mỗi năm một lần nơi đây các vị tiên ông thương hay đánh cờ đọ tài cao thấp ở đó. Còn có biết bao những sự tích, huyền thoại gắn liền với chùa Hương, tạo thêm cho vẻ kì bí linh thiêng của chốn phong cảnh hữu tình này.
Khi đi về, trong tay ai cũng đều mang về một thứ gì đó làm kỉ niệm. Du khách lên xe mà lòng bâng khuâng lưu luyến, không ai bảo ai mỗi người đều quay lại ngắm nhìn để in đậm những kỉ niệm về chùa Hương càng thêm tự hào về giang sơn gấm vóc mong sớm đến năm sau để lại có dịp tới thăm chùa Hương một lần nữa.
Thuyết minh về chùa - mẫu 14
Đền Hương Tích hay còn được biết đến với tên gọi quen thuộc là chùa Hương, đây là một ngôi chùa nằm ở vùng núi đá vôi của huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ và nay là thành phố Hà Nội. Đây là một trong những điểm tham quan, danh lam thắng cảnh nổi tiếng của nước ta, và được coi là nơi tôn giáo và tâm linh của người dân Việt Nam.
Chùa Hương được xây dựng từ thế kỷ XVII trên núi Hương Tích, đến nay có tuổi đời hơn 300 năm. Theo truyền thuyết ghi lại, người đã phát hiện ra nơi này là một người tu hành có tên là Vương Công Quỳnh. Chùa Hương đã trải qua nhiều lần xây dựng và cải tạo, tuy nhiên vẫn giữ được những giá trị tâm linh và văn hóa đặc biệt của đất nước Việt Nam.
Chùa Hương trong đó có bao gồm nhiều ngôi đền và chùa, được xây dựng trên các hang động và nằm trên núi đá vôi. Kiến trúc chùa Hương với điểm nhấn là những tác phẩm điêu khắc độc đáo trên các tảng đá, thể hiện tài nghệ của các nghệ nhân thời xưa. Điều đặc biệt của kiến trúc Chùa Hương là được thiết kế để phù hợp với môi trường núi đá vôi và tạo ra một không gian yên bình, tâm linh, hòa quyện với thiên nhiên.
Chùa Hương là một trong những điểm đến tôn giáo có ý nghĩa quan trọng đối người dân Việt Nam và của nhiều du khách thập phương. Khi đến chùa Hương, du khách có thể tham gia các hoạt động tâm linh, như dâng hương, cầu nguyện và thực hiện các nghi lễ tôn giáo khác nhau. Ngoài ra, Chùa Hương cũng là nơi thắp lên những niềm tin, đức tin và tinh thần đoàn kết của người dân Việt Nam. Chùa Hương được coi là một điểm đến hấp dẫn cho du khách trong nước và ngoài nước. Khi đến với chùa Hương, du khách có thể tham gia các hoạt động khác nhau như đường dây cáp treo, leo núi và khám phá, tìm hiểu các hang động, tìm hiểu về lịch sử hình thành và văn hóa của chùa Hương thông qua các hướng dẫn viên và trình diễn nghệ thuật. Đặc biệt, vào lễ hội Chùa Hương hàng năm, thông thường dịp lễ hội chùa Hương thường vào mùa xuân, ngôi chùa thu hút hàng triệu lượt du khách đến tham dự các hoạt động tôn giáo và văn hóa đặc sắc.
Chùa Hương là một trong những biểu tượng văn hóa và tôn giáo của người dân Việt Nam, đây là nơi quan trọng để bày tỏ lòng kính trọng đối với tổ tiên và mong cầu may mắn, an lành cho gia đình. Ngoài ra, Chùa Hương là nơi gắn kết tinh thần yêu nước và đoàn kết của người dân Việt Nam, đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn của lịch sử. Chùa Hương đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và phát triển nền văn hóa tôn giáo của đất nước, đồng thời thu hút nhiều du khách khác nhau đến tham quan và khám phá những điều tuyệt vời của địa danh này.
Thuyết minh về chùa - mẫu 15
Nói đến Hà Nội, người ta thường nghĩ ngay đến những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nơi đây như: Văn Miếu Quốc Tử Giám, hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc,… và chắc chắn không ai không nhắc tới ngôi chùa linh thiêng nhất, được xếp vào di tích quốc gia đặc biệt. Đó chính là chùa Tây Phương.
Chùa Tây Phương thuộc xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Tương truyền, chùa được xây dựng vào thế kỉ VI. Người xưa kể lại rằng vào những năm 324 – 326 có niên hiệu Hàm Hòa thời Đông Tấn Cát là một chức quan ở huyện Giao Châu nghe tin trên núi Cát Lậu có Chu Sa Đỏ, muốn tìm để làm thành thuốc trường sinh nên ông đã cùng nhân dân lập nên ngôi chùa nhỏ để thờ tự. Trải qua các cuộc chiến tranh và sự bào mòn của thời gian chùa đã bị tàn phá nặng nề. Vào năm 1794 ở thời Tây Sơn chùa đã được đại tu và có tên là chùa Tây Phương được biết tên chữ là Sùng Phúc Tự. Người dân gọi là chùa Tây.
Chùa Tây Phương nằm trên đỉnh núi Câu Lậu (núi Tây Phương) cao chừng 50m. Núi Câu Lậu được ví như con trâu đầu đàn quay đầu xuống dòng sông Tích uống nước. Vì nơi đây có 9 ngọn núi trông xa tựa như một đàn trâu. Qua cổng Tam Quan, chúng ta phải bước qua 237 bậc làm bằng đá ong thì mới tới chùa. Chùa được xây dựng dựa trên kiến trúc mặt bằng chữ tam; có 3 tòa nhà song song là Hạ – Trung – Thượng; tường bao quanh chùa và được xây kín, liền tạo thành kết cấu viền chữ còng. Kiến trúc chùa đã trở thành điển hình của các chùa ở miền Bắc với hai tầng mái giấu thiềm, lợp ngói mũi hài, các góc mái đao vươn lên cong vút, bên trên có gắn tứ linh thú (bốn con vật linh thiêng). Chùa có 64 pho tượng, phần nhiều được làm bằng gỗ mít. Trong đó có 18 tượng La Hán và kiến trúc đặc sắc nhất là pho tượng phật bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay. Cửa sổ trong chùa được chạm khắc hình tròn, mang ý nghĩa “sắc sắc không không”. Bên trong có nóc mái, rui mè đều có mông ô vuông được trang trí tô màu mô phỏng áo Cà Sa nhà Phật. Chùa có một chiếc chuông nặng tới 200kg. Cũng nhờ những nghệ thuật đặc sắc này mà vào ngày 24/04/1962 chùa Tây Phương đã được công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.
Tượng phật ở đây được đánh giá rất cao. Đó là những kiệt tác xuất sắc của các nghệ nhân xa xưa. Viết về các vị La Hán ở chùa Tây Phương, Huy Cận có bài thơ rất nổi tiếng:
"Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.
Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.
Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe từ thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn…."
Hình tượng La-hán trong bài thơ rất mới lạ. “Khi đọc bài thơ Các vị La-hán chùa Tây Phương của Huy Cận, một nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Nhà thơ vẽ ra những hình vẽ bên ngoài chủ yếu là để thể hiện nội tâm của những vị A-la-hán, mà cũng chính là nội tâm đau đớn, quằn quại, vật vã, đầy đau khổ, của những con người nơi trần thế…”. Các pho tượng là hiện thân của cuộc sống nghèo nàn, cực khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng ở thế kỷ XVIII. Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay là nghệ thuật đặc sắc nhất, là phật bà đại từ đại bi, luôn quan tâm, lắng nghe âm thanh khổ nạn của chúng sinh rồi hiện phép thần thông cứu giúp.
Là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng nên chùa Tây được rất nhiều du khách trong và ngoài nước tới tham quan. Đặc biệt là vào những ngày tết hay những ngày lễ hội vào tháng ba âm lịch hàng năm thì đông đảo nhân dân và du khách chen lấn nhau lên chùa tạo ra một không khí náo nhiệt, một khung cảnh nhộn nhịp, đông vui, tấp nập. Du khách đến nơi đây chủ yếu để cầu bình an cho gia đình, tham quan vẻ đẹp của ngôi chùa. Chùa Tây Phương trở thành nơi phát triển kinh tế cho người dân địa phương, là niềm tự hào của quốc gia chúng ta. Tôi tin rằng ngôi chùa này sẽ càng ngày nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý của du khách trong và ngoài nước.
Thật tự hào vì nơi đây có danh lam thắng cảnh tuyệt vời như vậy. Chúng ta hãy bảo vệ giữ gìn những nét đẹp văn hóa, điêu khắc đặc trưng của quê hương mình.
Thuyết minh về chùa - mẫu 16
Nhắc đến Chùa Trấn Quốc là nhắc đến một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Nơi đây không chỉ mang đậm dấu ấn về giá trị tinh thần văn hóa mà nó còn là một không gian du lịch thu hút rất nhiều khách trong và ngoài nước.
Về lịch sử ngôi chùa Trấn Quốc được xây dựng từ thời Lý Nam Đế những năm 541 – 547 và đặt tên là Khai Quốc, được xây dựng tại thôn Yên Hoa trên bãi cạnh sông Hồng. Sau đó đến thời Lê Thái Tông (1440 – 1442) được gọi là chùa An Quốc. Bắt đầu từ thời Lê Hy Tông (1680 – 1705) chùa có tên gọi chính thức là Trấn Quốc.
Vào khoảng những năm 1619 đến 1643 dưới thời vua Lê Thần Tông người dân hai làng Yên Phụ và Yên Quang đắp đập Cổ Ngư chắn ngang Hồ tây và đắp luôn một con đường Cổ Ngư đi vào chùa. Chùa được tu sửa vào những năm 1624 – 1628 dựng thêm hậu đường, quy mô mở rộng, và chạm trổ hoa văn khéo léo tinh xảo.
Nói về cảnh quan xung quanh chùa thì có thể hình dung là vô cùng an tĩnh và thi vị. Ngôi chùa Trấn Quốc được coi là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất Hà Nội. Xưa kia là nơi các Vua chúa ngự đến vãng cảnh và cúng lễ vào dịp tết và lễ. Đến thời Lý Trần rất nhiều các cung điện được xây dựng tại đây như Thúy Hoa, Hàm Nguyên phục vụ cho việc nghỉ ngơi thư giãn của nhà Vua.
Giống như các ngôi chùa khác ở Việt Nam kết cấu của ngôi chùa cũng tuân thủ tính khắt khe của Phật Giáo. Chùa gồm nhiều lớp với 3 ngôi chính là Tiền Đường, thiêu hương và thượng điện.
Nói về tiền đường nằm ở hướng Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai bên hành lang. Sau thượng điện là gác Chuông. Gác chuông là một ngôi ba gian, mái chồng diêm. Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Hiện tại trong chùa có khoảng mười bốn tấm bia ghi lại lịch sử tu sửa chùa.
Khuôn viên Chùa có một Bảo Tháp lục độ đài sen được xây dựng vào những năm 1998, gồm có 11 tầng cao đến 15m. Mỗi tầng tháp có sáu ô cửa hình vòm, trong mỗi một ô đặt thêm một tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen gồm chín tầng bằng đá quý còn có tên gọi khác là Cửu phẩm liên hoa. Bảo tháp này đối xứng với cây Bồ đề lớn do tổng thống Ấn Độ tặng khi đến thăm Chùa vào năm 1959.
Đến với không gian chùa bạn không chỉ được cầu kinh, niệm Phật mà còn được đắm chìm trong một không gian nghệ thuật đặc sắc. Hài hòa mang hồn cốt tinh hoa của cả một dân tộc, giá trị lịch sử văn hóa văn hiến của Việt Nam.
Ngày nay, Chùa Trấn Quốc vẫn thu hút được rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Chùa được công nhận là Di tích lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia vào năm 1989. Không chỉ có giá trị tâm linh mà nơi đây còn là một địa điểm du lịch hấp dẫn để đầu năm du khách khắp nơi hành hương vãng cảnh.
Thuyết minh về chùa - mẫu 17
Việt Nam, vùng đất của chúng ta, tươi đẹp bởi những cảnh đẹp tự nhiên và di tích lịch sử ấn tượng, khiến thế giới không ngừng ngưỡng mộ. Nếu bạn có dịp ghé thăm Nam Định, hãy dành thời gian đến thị trấn Cổ Lễ thuộc huyện Trực Ninh. Tôi sẽ hướng dẫn bạn khám phá Chùa Cổ Lễ - một biểu tượng lịch sử độc đáo.
Chùa Cổ Lễ, hay còn gọi là Thần Quang Tự, là một di tích lịch sử nằm tại thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Từ trung tâm thành phố, bạn sẽ đi qua cầu đò quan và tiếp tục trên quốc lộ 21 về phía nam, đến km số 16, bạn sẽ nhận ra ngôi chùa nằm ở phía tây của thị trấn. Chùa Cổ Lễ được xây dựng từ thế kỷ XII, dưới thời vua Lý Thần Tôn, và là nơi thờ Phật và đức thánh tổ Nguyễn Minh Không. Đức thánh tổ, khi 29 tuổi, đã xuất gia và trở thành một y sư nổi tiếng, đã cứu chữa vua Lý Thần Tôn khỏi căn bệnh nguy hiểm và được nhà vua phong làm Lý triều Quốc sư. Trước đây, chùa được xây dựng bằng gỗ theo kiến trúc cổ điển, nhưng sau nhiều thập kỷ chịu ánh nắng mưa, mối mọt, ngôi chùa cổ này đã trở nên rất xuống cấp. Vào năm 1902, đệ nhất tổ sư Phạm Quang Tuyên, người trụ trì chùa, đã tiến hành tái xây dựng và mở rộng kiến trúc theo mô hình "Nhất thốc lâu đài". Sau đó, chùa đã trải qua nhiều lần tu sửa bằng các vật liệu như gạch, vôi, vữa, mật mía và giấy bản để bảo đảm độ vững chắc của kiến trúc này.
Khi bạn nhìn từ xa, khuôn viên chùa được bao quanh bởi những cây cổ thụ xanh tươi. Khi bước vào cổng chùa bên tay trái, bạn sẽ thấy toà "Cửu phẩm liên hoa", được xây dựng từ năm 1926-1927, với tượng sen chín tầng đang nở rộ. Tầng đỉnh tháp có 8 mặt và được đặt trên lưng một con rùa lớn hướng về phía chùa. Trụ lớn bên trong tháp có 98 bậc cầu thang xoắn ốc lên tới đỉnh. Tin đồ Phật tử thường thỉnh thoảng đến đỉnh tháp để sờ vào tượng Phật, với hi vọng gặp may mắn. Từ đỉnh tháp, bạn có thể tận hưởng cảnh quan và vẻ đẹp của vùng quê. Chùa chính có chiều cao khá hiếm thấy ở các ngôi chùa cổ Việt Nam, cao 29m, được cấu tạo theo mô hình cửu trùng với chín tòa khác nhau, nhiều tòa ngang và dọc nối kết lại thành một khối duy nhất. Điểm đặc biệt ở đây là kiểu uốn khung, cuốn vòm dáng dấp hoa sen được xây dựng bằng vật liệu như vôi, cát và mật. Trước cửa chùa, có sáu cột lục lăng rỗng, ba mặt trước mỗi cột trang trí bằng ô hình chữ nhật, gắn kính màu, khi thắp đèn, chúng hiện ra các màu xanh đỏ rực rỡ, tạo nên một không gian tuyệt vời như trong cổ tích Phật giáo. Bên trong chùa, trước khi bạn nhìn thấy những vòm mái cong tạo nên một không gian thần tiên, bạn sẽ thấy tượng Phật Thích Ca rất lớn được đặt trên thượng điện.
Hằng năm, từ ngày 10 đến 16 âm lịch, tại Chùa Cổ Lễ diễn ra lễ hội với nhiều nghi lễ truyền thống và các trò chơi dân gian như đua thuyền, cờ người, và nhiều hoạt động khác. Chùa đã được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia, là trụ sở của Phật giáo huyện Trực Ninh và là nơi hội tụ của Phật giáo tỉnh Nam Định.
Chùa Cổ Lễ không chỉ là một điểm đến tâm linh quan trọng mà còn mang giá trị văn hóa sâu sắc. Nó là nơi để con người tìm kiếm bình an và may mắn cho gia đình và bản thân. Đây cũng là nơi thể hiện sự kính trọng đối với những người đã hi sinh vì đất nước. Chùa Cổ Lễ là một trong những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa đặc biệt ở vùng đồng bằng sông Hồng, và là niềm tự hào của người dân Nam Định. Chúng ta cần có trách nhiệm bảo vệ và tôn trọng di tích này để nó có thể tồn tại và truyền lại cho thế hệ sau. Hãy bắt đầu từ những hành động nhỏ nhặt như không vứt rác bừa bãi, không gây hại đến cây cỏ trong khuôn viên chùa, và không làm ô nhiễm hồ và ao trong khu vực này.
Chùa Cổ Lễ là một mảnh đất thiêng, đầy lịch sử văn hóa và cách mạng, và là một bảo tàng sống về chữ "Đạo" và "Đời". Kiến trúc độc đáo của nó thể hiện sự sáng tạo và tinh tế của nghệ thuật kiến trúc, tạo nên một không gian độc đáo và mới lạ. Dù ở bất kỳ đâu, tôi luôn tự hào về danh lam thắng cảnh này.
Thuyết minh về chùa - mẫu 18
Phật giáo đã rễ sâu và phát triển trong văn hóa của Việt Nam suốt hơn một ngàn năm trời. Đây là một tôn giáo đặc biệt, đã gắn bó chặt chẽ với cuộc sống tâm linh của con người và xen vào dòng lịch sử cùng văn hóa của đất nước. Điều này không chỉ mang lại cho con người niềm tin và tinh thần từ bi, mà còn tạo nên những di sản vô giá trong những ngôi chùa cổ kính. Một trong những công trình nổi bật nhất trong danh sách này chính là Chùa Một Cột, một biểu tượng lịch sử tại Hà Nội ngày nay.
Chùa Một Cột, hay còn được gọi là Chùa Mật, Nhất Trụ tháp, Diên Hựu tự, được biết đến với tên gọi "Liên Hoa Đài" do kiến trúc của nó giống như một đóa hoa sen nở giữa lòng một hồ nước. Nằm ngay giữa trung tâm thủ đô Hà Nội và thuộc quần thể di tích lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là một ngôi chùa có kiến trúc độc đáo không giống bất kỳ ngôi chùa nào ở Việt Nam.
Chùa Một Cột được xây dựng dưới triều đại của vua Lý Thái Tông vào năm 1049. Theo truyền thống, vua Lý Thái Tông đã thấy một giấc mơ về Phật Quan Âm trên một bông sen đưa tay dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy, vua đã xây dựng ngay ngôi chùa này, với một cột đá giữa hồ, làm toà sen của Phật Quan Âm để trấn áp những điều không lành. Chùa Một Cột, khi hoàn thành, có một đài sen với ngàn cánh đỡ toà Phật sắc hồng và tượng Phật vàng lấp lánh. Những lễ nghi tôn thờ và niệm Phật đã diễn ra tại đây, mang ý nghĩa là "phúc lành dài lâu" hay "phước bền dài lâu," dưới cái tên "Chùa Diên Hựu."
Suốt hơn nghìn năm tồn tại, Chùa Một Cột đã trải qua nhiều lần trùng tu và sửa chữa để duy trì vẻ đẹp và sức mạnh của nó, vượt qua thời gian và khủng bố của quân đội ngoại xâm. Ngôi chùa vẫn giữ nguyên nguyên tắc với sự độc đáo của việc nằm trên một cột đá, trôi giữa một hồ nước.
Về mặt kiến trúc, Chùa Một Cột đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật xây dựng thời kỳ đó. Nó thể hiện sự tương quan vàng hoàn hảo giữa các thành phần kiến trúc của nó, tạo ra một sự cân đối đẹp mắt.
Chùa Một Cột nổi tiếng với việc xây dựng nằm giữa hồ nước, có kích thước 20m mỗi cạnh, với tường thấp bao quanh. Kiến trúc của nó độc đáo với một kết cấu hình vuông nằm trên một trụ đá và một hệ thống thanh gỗ độc đáo làm khung sườn cho ngôi chùa, tạo ra hình dáng giống như một đóa sen nở giữa hồ nước. Mái chùa lợp ngói ta, mỗi cạnh dài 3m, với bốn mái và đầu đao cong được tạo thành hình đầu rồng. Trụ đá, gồm hai khối liền kết với nhau, có đường kính 1,2m và cao 4m (không tính phần chìm dưới đất). Để lên chùa, bạn phải đi qua một cầu thang nhỏ làm bằng gạch. Phần trên thân trụ chứa một hệ thống thanh gỗ tạo thành khung sườn cho ngôi chùa ở trên, tạo nên nét độc đáo của Chùa Một Cột.
Nóc chùa có mặt nguyệt bốc lửa, đầu rồng bao quanh. Bên trong chùa, có tượng đức Phật Quan Âm ngồi trên một bông sen được làm bằng gỗ sơn vàng. Phía trên tượng Phật là hoành phi "Liên hoa đài," gợi nhớ câu chuyện của vua Lý và việc xây dựng chùa. Để lên sàn chùa và tụng kinh lễ bái, người ta phải bước qua 13 bậc thang rộng 1,4m, với hai bên tường gạch và các bảng đá giới thiệu lịch sử của ngôi chùa.
Mặc dù quy mô của Chùa Một Cột không lớn, nó mang đến một vẻ đẹp độc đáo và đậm chất văn hóa. Dù chỉ dựng trên một cột đá, nó đã tồn tại bất kể thời gian. Khách du lịch từ xa mỗi lần đến thăm đều kinh ngạc trước kiến trúc độc đáo của nó.
Ngày nay, mặc dù không còn có cánh sen trên cột đá như trên bia văn thời nhà Lý, Chùa Một Cột vẫn là một biểu tượng độc đáo, vẫn giữ vẻ đẹp của nó khi nó vươn lên trên mặt nước như một bông sen. Hồ nước được bao quanh bởi các hàng rào làm từ viên gạch men xanh. Kiến trúc của ngôi chùa thể hiện sự kết hợp táo bạo giữa tượng trưng và lãng mạn của hình tượng sen và cấu trúc hoàn hảo của gỗ và đá, với sự bổ sung của cảnh quan xung quanh, hồ và cây cối. Ngay từ phía dưới, ao hình vuông đại diện cho đất (trong khi bầu trời tròn đại diện cho trời), và ngôi chùa nằm giữa giống như một biểu tượng cao quý về lòng nhân ái, soi tỏ thế gian. Hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ và sự giải thoát thông qua hiểu biết sâu sắc, nằm ở trung tâm của tất cả.
Mặc dù Chùa Một Cột thuộc về Phật giáo, kiến trúc của nó không giống với bất kỳ ngôi tháp Phật nào khác. Nó mang tính triết học và nhân văn, với việc hình vuông bên ngoài biểu trưng cho âm, và cột tròn bên trong biểu trưng cho dương, vẫn giữ nguyên sự cân bằng này, tạo nên sự tuần hoàn tương sinh và tương khắc của vũ trụ. Vẻ đẹp của nó vừa thanh thoát và lịch lãm, độc đáo như cõi Phật.
Chùa Một Cột đã được chọn làm biểu tượng của thủ đô Hà Nội và xuất hiện trên đồng tiền kim loại 5000 đồng của Việt Nam. Thậm chí, còn có một phiên bản của Chùa Một Cột tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, thủ đô Moskva của Nga cũng có một phiên bản của Chùa Một Cột tại Tổ hợp Trung tâm Văn hóa - Thương mại và Khách sạn "Hà Nội - Matxcova." Chùa Một Cột không chỉ là một ngôi chùa, mà còn là biểu tượng của văn hóa và tâm linh của người Việt Nam.
Chùa Một Cột là nơi tụ họp của những lễ bái và lòng kính trọng của nhân dân thủ đô Hà Nội và khắp cả nước. Truyền thống lễ tắm Phật của vua Lý Thái Tông đã được duy trì qua hàng thế kỷ. Mỗi năm vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, vua cùng các nhà sư và nhân dân tụ tập tại chùa để tắm Phật và phóng sinh. Sau lễ tắm Phật, vua đứng trên một đài cao trước chùa và thả một con chim bay đi, sau đó nhân dân tung chim bay theo trong tiếng reo vui của một ngày hội lớn. Ngày nay, các hoạt động này vẫn được duy trì nhằm cầu mong phúc lành, cuộc sống thịnh vượng, và an ổn cho toàn bộ dân tộc.
Vào ngày 10/11/2012, tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác nhận Chùa Một Cột là "Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á." Nó cũng đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia từ năm 1962 và được ghi danh trong sách kỷ lục Guiness Việt Nam với danh hiệu "Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam" sau 6 năm. Vượt qua hàng nghìn năm với biết bao biến cố trong lịch sử, Chùa Một Cột vẫn giữ vững bản sắc của Thăng Long xưa. Nó không chỉ là một ngôi chùa nhỏ bé mà là một biểu tượng vĩ đại của văn hóa và lịch sử Việt Nam, vẫn đứng vững trước thử thách của thời gian.
Thuyết minh về chùa - mẫu 19
Thủ đô Hà Nội, vốn đã có danh tiếng bền lâu hàng ngàn năm, là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị, và quân sự hàng đầu của đất nước ta. Nguyên từng được Lý Công Uẩn, vị vua thông thái, nâng niu và tôn trọng đặt cơ sở ổn định cho đất nước sau 1000 năm khủng hoảng. Đồng thời, nơi đây cũng đã chứng kiến nhiều triều đại và đế vương của nước ta tìm đến để cư ngụ. Chính vì lý do này, mảnh đất "rồng cuộn hổ ngồi" này trở nên đặc biệt với nhiều dấu tích lịch sử quý báu, thể hiện sự phồn thịnh và phát triển đa dạng của đất nước chúng ta.
Trong lĩnh vực văn hóa, sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo cũng đã tạo ra nhiều kiệt tác kiến trúc đặc biệt, và không thể không nhắc đến chùa Một Cột.
Chùa Một Cột, còn được gọi là chùa Mật, Nhất Trụ Tháp, Liên Hoa Đài, Diên Hựu tự, là một trong những kiến trúc độc đáo duy nhất tại Việt Nam và đã tồn tại cho đến ngày nay, dù đã trải qua một cuộc đại tu vào năm 1955 sau cuộc chiến tranh với Pháp. Hiện nay, ngôi chùa nằm tại phố Chùa Một Cột, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, và được trụ trì Đại đức Thích Tâm Kiên quản lý.
Ngôi chùa này được xây dựng dưới thời vua Lý Thái Tông vào mùa đông tháng mười năm Kỷ Sửu 1049, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ nhất. Kiến trúc độc đáo của chùa Một Cột xuất phát từ giấc mơ của vua Lý Thái Tông, khi ông mơ thấy Phật bà Quan Âm đang dắt tay ông lên một tòa sen. Dựa vào ấn tượng này, vua quyết định xây dựng một ngôi chùa có hình dáng giống một đóa sen nở trên một tòa sen.
Suốt nhiều triều đại, chùa Một Cột đã trải qua sự tu sửa và nâng cấp, nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc độc đáo từ thời Lý. Ngày nay, nó được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia và được công nhận bởi Tổ chức Kỷ lục Châu Á là "Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất" trong khu vực.
Chùa Một Cột nổi tiếng với kiến trúc độc đáo của nó, được gọi là "kiến trúc 1 cột". Loại kiến trúc này đã tồn tại từ thời đại của nhà Lý và được sử dụng trong nhiều công trình phật giáo dành riêng cho vương tôn quý tộc, trở thành một nét đặc trưng của Phật giáo tại Việt Nam.
Toàn bộ chùa được xây bằng gỗ, và bên trong có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát để thờ phượng. Chùa đã được tu sửa nhiều lần và hiện nay có một đài Liên Hoa hình vuông, mái cong, lợp ngói. Trên mái đài có hình trang trí Xi Vẫn và trên nóc mái có hình "lưỡng long chầu nguyệt", biểu tượng cho sự mạnh mẽ và tinh tế.
Trong văn hóa phương Đông, rồng kết hợp với trăng trang trí trên các đình, đền, và chùa là biểu trưng cho sự thần thánh và uy nghiêm, mang theo nhiều giá trị văn hóa, tâm linh, và trí tuệ. Tất cả các phần của Liên Hoa Đài được cân đối trên một cột đá có đường kính 1,2m, gồm hai khối đá lớn xếp chồng lên nhau. Từ cột đá này, hệ thống các dầm đỡ bằng gỗ tỏa ra tạo thành tám góc, giống như hình dáng của đài hoa. Toàn bộ kiến trúc của chùa Một Cột trông như một bông sen nở lớn trên mặt nước, thể hiện vẻ đẹp tinh khôi và cao quý của văn hóa Việt Nam. Hoa sen được xem là quốc hoa, chứa đựng những giá trị văn hóa sâu sắc không chỉ trong tôn giáo mà còn trong cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam.
Chùa Một Cột không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo, mà còn mang trong mình ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó là sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố âm và dương, biểu thị quy luật hài hòa trong tạo hóa và cuộc sống. Cũng thể hiện sự tôn sùng và phát triển mạnh mẽ của Phật giáo dưới thời triều Lý.
Ngày nay, chùa Một Cột đã trở thành biểu tượng quan trọng và tiêu biểu của thủ đô Hà Nội, thu hút hàng ngàn khách du lịch mỗi năm. Đây cũng là niềm tự hào của dân tộc, là minh chứng cho những dấu tích vĩ đại của quá khứ, là biểu tượng đặc biệt của tâm hồn Việt từ hàng ngàn năm qua.
Nếu bạn có cơ hội đến thăm thủ đô Hà Nội, hãy không bỏ lỡ cơ hội tham quan di tích lịch sử và văn hóa này. Hãy đến để trải nghiệm không khí thánh thiêng của "đóa sen ngàn năm" và tận hưởng sự thanh sạch và an nhiên mà nó mang lại. Đồng thời, bạn cũng sẽ được chứng kiến vẻ đẹp cổ kính và sự tài hoa của lớp người Việt trong thời đại cổ đại.
Thuyết minh về chùa - mẫu 20
Chùa Cổ Lễ nằm ở trung tâm thị trấn Cổ Lễ, thuộc huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Đây không chỉ là một ngôi chùa nổi tiếng của tỉnh Nam Định mà còn của cả nước, với tên chính thức là "Thần Quang Tự".
Ngôi chùa này thờ Phật và Thiền sư Nguyễn Minh Không, được biết đến với danh hiệu Đức Thánh tổ, người đã đóng góp xây dựng ngôi chùa từ thời Lý (thế kỷ XII). Đức Thánh tổ, vốn tên gọi là Nguyễn Chí Thành, xuất thân từ làng Đàm Xá, thuộc đất Trường Yên (nay là xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Ông là một nhà sư danh tiếng và còn được biết đến là ông tổ của nghề đúc đồng ở Việt Nam. Với khả năng thực hiện nhiều phép màu độc đáo, ông thường đi khắp nơi để chữa bệnh và giúp đỡ nhân dân. Ông từng cứu Vua Lý Thần Tông khỏi căn bệnh nan y, và được nhà vua tôn làm Lý triều Quốc sư. Cùng với các thiền sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh, ông được coi là một trong Tam vị thánh tổ của Phật giáo Việt Nam.
Chùa Cổ Lễ đã trải qua nhiều biến cố trong lịch sử và thời gian, khiến dấu tích cổ xưa đã mờ đi. Tuy nhiên, vào năm 1902, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên, một Thiền sư uyên bác và có kiến thức kiến trúc, được giao trụ trì chùa và tiến hành tái xây dựng ngôi chùa này.
Điều đặc biệt là trong quá trình xây dựng, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên không cần một bản vẽ thiết kế chi tiết và không sử dụng các vật liệu hiện đại như xi măng và sắt thép. Thay vào đó, ông sử dụng gạch, vôi, vữa, mật, muối, giấy bản và sức lao động của cộng đồng để xây dựng ngôi chùa. Nhờ vào sự sáng tạo này, chùa Cổ Lễ mang kiến trúc độc đáo, kết hợp giữa phong cách cổ truyền và phong cách Gothic châu Âu. Điều này khiến cho chùa vừa giữ được vẻ truyền thống của một ngôi chùa cổ xưa mà còn có nét hiện đại và độc đáo.
Chùa Cổ Lễ nằm trong một khuôn viên đẹp, bao quanh bởi cảnh quan sơn thuỷ tuyệt đẹp, với một hồ nhỏ và các sông rặng xung quanh. Toà chính cung cao gần 30 mét và có mái vòm kiên cố. Trên trần toà có các bức bích họa rực rỡ, tạo nên một không gian vừa hiện đại vừa trang trọng.
Khuôn viên chùa bao gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau như cổng chùa, Tháp Cửu phẩm liên hoa, cầu cuốn, Tam quan, Phật giáo Hội quán, Đền thờ Trần Hưng Đạo (Linh Quang từ), Phủ Mẫu, chùa chính, nhà Tổ, nhà khách, phòng tăng, pháp đường, và gác chuông "Kim Chung Bảo Các".
Trước chùa, có tháp Cửu phẩm liên hoa cao 32 mét, có 8 mặt và được xây dựng vào năm 1927. Tháp này đặt trên lưng một con rùa lớn, biểu tượng cho sự vững chắc và trường tồn của đạo Phật. Con rùa này nằm giữa một hồ nước hình vuông, với bốn góc là bốn ngọn núi giả lớn, và cổ rùa có bốn con voi bằng đồng. Trong tháp có một cầu thang xoắn ốc gồm 98 bậc dẫn lên đỉnh. Tin đồ Phật tử thường thỉnh thoảng lên đỉnh tháp để sờ vào tượng Phật, hy vọng gặp may mắn.
Khuôn viên chùa cũng có một chiếc cầu cong ba nhịp, được gọi là cầu Cuốn, qua hồ Chu Tích. Mặt cầu được lát bằng gạch.
Cầu Cuốn dẫn tới chùa Trình, còn gọi là Phật giáo Hội quán. Chùa Trình được xây vào năm 1936 và đã được trùng tu vào năm 2001. Trong chùa có tượng Phật Quan Thế Âm nghìn tay. Trước sân chùa Trình, có hai tượng lư đồng lớn. Đây cũng là nơi mà 27 vị sư của chùa cởi áo cà sa và khoác chiến bào vào ngày 27/02/1947 trước khi lên đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Bên trái chùa Trình là đền Linh Quang Từ, được xây vào năm 1937 và thờ Trần Hưng Đạo cùng hai tiến sĩ họ Đào người làng cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ và Tiến sĩ Đào Toàn Mễ. Bên phải chùa Trình là Khánh Quang phủ, xây dựng vào năm 1937, và là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.
Phía sau chùa Trình là một chiếc hồ lớn, giữa hồ đặt một quả chuông nặng 9000 kg, được gọi là chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông này cao 4,2 mét, đường kính 2,2 mét và dày 8 cm. Miệng chuông được trang trí với họa tiết cánh sen, hoa lá, sông nước và một số văn tự chữ Nho. Mặc dù chưa từng được đánh lần nào, nhưng người dân kể rằng tiếng ngân của chuông Đại Hồng Chung này có thể nghe thấy ở cả tỉnh và một số vùng lân cận. Đây là một trong những quả chuông lớn nhất ở Việt Nam. Nhân dân quanh vùng đã đóng góp vàng, nhẫn, vàng để thực hiện việc đúc chuông này. Khi chuông mới đúc xong, kháng chiến bùng nổ, nên chuông được đem ngâm xuống hồ. Năm 1954, chuông được trục vớt và đặt trên bệ đá để du khách tham quan.
Tòa chính cung của chùa Cổ Lễ kết hợp độc đáo giữa kiến trúc Đông và Tây, cổ và hiện đại. Mặc dù mang vẻ truyền thống của Phật giáo Việt Nam với các hình tượng phù điêu như rồng phượng, mái đao, hoa sen và mái cuộn, nhưng công trình này cũng có sự hiện đại hóa với mái vòm nguy nga giống như lâu đài cổ kính. Tòa chính cung này là một trong những công trình tráng lệ của Phật giáo. Phía sau tòa tam bảo là cung cấm của đức thánh tổ Nguyễn Minh Không, theo phong cách thờ "Tiền Phật, Hậu Thánh".
Sau nhà thờ tổ là một gác chuông hoành tráng, có 3 tầng và 4 mặt, được gọi là "Kim Chung Bảo Các". Gác chuông này có chiều cao lên đến 13,4 mét và đã xây dựng vào năm 1997. Tầng 2 của gác chuông này có một quả chuông đồng lớn cao 4,2 mét, rộng 2,03 mét và nặng 9.000 kg, được đúc vào năm 2003. Tầng 3 có treo một quả chuông đồng từ thời Lê Cảnh Thịnh, nặng 300 kg.
Sau gác chuông chính là khu lăng mộ của tổ sư của chùa. Trong chùa còn sở hữu một chiếc trống đồng và những chiếc thuyền dùng trong các lễ hội thi bơi chải.
Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:
- Thuyết minh về một thể loại văn học (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết mình về đồ dùng học tập, sinh hoạt (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết minh về một địa điểm du lịch nổi tiếng (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết minh về món phở (dàn ý, 30 mẫu)
- Thuyết minh về chiếc nón lá Việt Nam (dàn ý, 30 mẫu)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:
- Mục lục Văn phân tích, phát biểu cảm nghĩ, cảm nhận
- Mục lục Văn biểu cảm
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn nghị luận
- Giải Tiếng Anh 8 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 8 Friends plus
- Lớp 8 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 8 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) KNTT
- Giải sgk Toán 8 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 8 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 8 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - KNTT
- Giải sgk Tin học 8 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 8 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 8 - KNTT
- Lớp 8 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 8 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 8 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 8 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 8 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 8 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - CTST
- Giải sgk Tin học 8 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 8 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 8 - CTST
- Lớp 8 - Cánh diều
- Soạn văn 8 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 8 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 8 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 8 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 8 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 8 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 8 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 8 - Cánh diều