25+ Phân tích Từ ấy (điểm cao)
Phân tích bài thơ Từ ấy gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 11 trên cả nước.
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 1
- Dàn ý Phân tích bài thơ Từ ấy
- Sơ đồ Phân tích bài thơ Từ ấy
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 2
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 3
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 4
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 5
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 6
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 7
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 8
- Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 9
- Phân tích bài thơ Từ ấy (mẫu khác)
Bài giảng: Từ ấy - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 1
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lý tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.
Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lý tưởng cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Lí tưởng đó như mặt trời chân lý đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.
Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lý tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca. Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lý – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ.
Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chinh lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.
Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim... vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lý, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của "cái tôi trữ tình cách mạng". Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.
Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao "cái tôi cá nhân". Khi được giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi cá nhân" và "cái ta tập thể". Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của "cái tôi cá nhân" để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi "cái tôi" chan hòa trong "cái ta", khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.
Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Trước khi giác ngộ lý tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỷ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là... lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết. Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm...)
Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. "Cái tôi trữ tình" lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lý tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lý tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hy sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỷ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.
Dàn ý Phân tích bài thơ Từ ấy
1. Mở bài
1.1. Hoàn cảnh ra đời
- Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937) và được kết nạp Đảng năm 1938. - Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lý tưởng cộng sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu. Tự nhận định về Từ ấy, anh viết: "Từ ấy: là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh".
1.2. Nội dung
- Tâm nguyện cao đẹp của người thanh niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng: Niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lý tưởng cộng sản.
1.3. Tứ thơ
- Tứ thơ "Từ ấy" bắt nguồn từ cảm hứng của thời điểm Tô Hữu đón nhận lí tưởng cách mạng.
2. Thân bài
2.1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
- Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tôi..." Từ ấy, là lúc nhà thơ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời "chân lí" cách mạng soi sáng đường đời. Hình ảnh ẩn dụ "nắng hạ" cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn nhà thơ, "mặt trời chân lý" là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng diệu kỳ của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản - ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.
- Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: "vườn hoa lá", "đậm hương" "rộn tiếng chim".
- Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh thang tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.
2.2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống
- Hai dòng đầu : nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi" cá nhân với "cái ta" chung của mọi người.
- Động từ "buộc" là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để chan hòa mọi người "Tôi buộc lòng tôi với mọi người".
- Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến "trăm nơi" (hoán dụ) và "trang trải" sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.
- Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và từ đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm - nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: "khi chúng ta cầm tay mọi người - Đất nước vẹn tròn, to lớn".
Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
2.3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
- Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách mạng như "Mặt trời chân lí chói qua tim", đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường ích kỷ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu "vẹn tròn to lớn".
- Nhà thơ tự nhận mình "là con của vạn nhà" trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là em của "vạn kiếp phôi pha" gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của "vạn đầu em nhỏ" "cù bất cù bơ". Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.
3. Kết bài
- Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.
- Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình - chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng.
- Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.
- Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.
- Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.
Sơ đồ Phân tích bài thơ Từ ấy
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 2
Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của chính mình.
Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”
“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được dùng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời của tác giả. Tại thời điểm đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả.
Đó là khi tác giả được giác ngộ Cách mạng, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương - một bước ngoặt đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong cuộc đời. Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” - một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lênin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một con đường mới cho cuộc đời.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Nắm bắt được chân lý, tác giả như tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu dùng biện pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác giả như một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa - một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống.
Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết. Đến khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”
Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh cá nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối đoàn kết. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “trang trải đến trăm nơi”.
Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận bất hạnh để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và giúp đỡ lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người.
Và đặc biệt, khi mọi người có tinh thần đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, che chở cho nhau thì sẽ giúp cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” - hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung cảnh ngộ, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “gần gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn - một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.
Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.
“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.”
Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong cuộc đời. Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người.
Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời bất hạnh, đầy khó khăn đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. Nếu như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi cá nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết các giai cấp trong xã hội.
“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công kết hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.
Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang đến niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã nhận ra sứ mệnh của cuộc đời mình. Phân tích Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận được sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 3
Nhà thơ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành được biết đến là nhà thơ tiên phong cho nền thơ Cách Mạng Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu cũng là đồng chí tham gia Cách Mạng sôi nổi và yêu nước. Thơ của ông đậm chất trữ tình, đằm thắm đồng thời cũng có yếu tố chính trị đan xen.
Cả cuộc đời của nhà thơ Tố Hữu đã cống hiến cho thi ca nước nhà thể hiện được lòng yêu nước, ngợi ca nhân dân và khuyến khích tinh thần Cách Mạng. Khi nhắc đến nhà thơ Tố Hữu thì không thể không nhắc đến những tác phẩm thi ca nổi tiếng như tập thơ Máu và hoa, Ra trận...Bài thơ Từ ấy thể hiện được sự phấn khích, hồ hởi của một thanh niên đã được giác ngộ lý tưởng Cách Mạng.
Bài thơ Từ ấy được trích dẫn từ tập thơ Máu lửa đây cũng là bài thơ được coi là hay và độc đáo nhất tập thơ của nhà thơ Tố Hữu. Khổ đầu tiên chính là niềm vui hân hoan của người thanh niên Kim Thành được đứng trong đội ngũ của Đảng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim’’
Tác giả sử dụng động từ “bừng’’ là một động từ mạnh và đột ngột. Tự nhiên “bừng’’ lên nắng hạ. Nắng hạ là nắng gay gắt và mạnh nên tác giả sử dụng động từ “bừng’’ ở đây để miêu tả việc được giác ngộ Cách mạng Đảng ở đây thật sáng tạo. Khi nhà thơ Tố Hữu hoạt động sôi nổi ở Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Huế được 1 năm thì nhà thơ đã được đứng trong đội ngũ Đảng là những người tiên phong và gương mẫu.
Hình ảnh mặt trời chân lý chính là hình ảnh ẩn dụ Cách mạng của Đảng. Động từ “chói’’ là động từ thể hiện sự chói lọi mạnh mẽ như sự chiếu sáng cho mọi vật. Vậy câu thơ chính là lời kể tâm sự của một người thanh niên cảm nhận được lý tưởng chân lý Đảng đúng đắn và rạng ngời.
Chói qua tim chính là chói vào trái tim của người lính yêu nước. Người lính khi được giác ngộ tư tưởng sáng ngời ấy thì sẽ một lòng yêu nước và tận trung với dân. Vì được đứng trong đội ngũ Cách Mạng mà tác giả cảm thấy vui mừng khôn tả để viết được những dòng thơ đầy xúc động. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện tâm hồn tươi đẹp và hồn nhiên của nhà thơ được so sánh như sau:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim’’
Tâm hồn của người con trai lúc tuổi mười tám đôi mươi thật đẹp biết bao khi được ví như vườn hoa lá. Một vườn hoa lá đâm chồi nảy lộc bừng sắc hương cũng giống như sức lực thời trai trẻ dồi dào và đầy nhiệt huyết. Hình ảnh còn được ví von thêm với những hình ảnh xinh đẹp khác đó là có thêm tiếng chim và rất đậm hương. Một khu vườn đầy hoa lá và có thêm tiếng chim hót líu lo và có mùi hương của các loài hoa thì còn gì đẹp bằng!
Liên tưởng từ hai câu thơ đầu với hai câu thơ này chúng ta có thể diễn đạt một ý của tác giả đó là nhờ có ánh sáng, lý tưởng Cách mạng Đảng thì tác giả mới chợt nhận ra được một điều kỳ diệu như một thứ ánh sáng mà tác giả chưa được thấy bao giờ. Nhờ có ánh sáng ấy mà tâm hồn người chiến sĩ được tươi trẻ và có thêm biết bao sức sống.
Đúng là hồi còn trẻ người ta sẽ có nhiều ước mơ hoài bão muốn được thực hiện nhờ đây đã có lý tưởng của Cách Mạng soi đường thì bao nhiêu khó khăn vất vả cũng sẽ sớm vượt qua. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ Từ ấy chính là sự giác ngộ lý tưởng để có thể hình thành nên được những tư tưởng lớn:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm vạn khối đời’’
Khổ thơ gợi lên biết bao nhiêu sự suy tư về cái tôi cá nhân rộng lớn bao la và muốn nguyện gắn kết với mọi người. Động từ “buộc’’ chính là động từ thể hiện sự gắn kết thắt chặt giữa tấm lòng tác giả với mọi người. Khác với động từ “buộc’’ trong bài thơ Vội vàng của nhà thơ Xuân Diệu động từ buộc được sử dụng như một nét chấm phá và có ước vọng được vạn vật dừng lại:
“Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi’’
Động từ buộc được tác giả Tố Hữu sử dụng rất khéo và hay khiến cho người đọc cảm thấy dễ gần và thân thiết. Dường như tác giả cảm nhận được khi mình đứng trong đội ngũ Cách mạng của Đảng thấy có trách nhiệm hơn thấy yêu thương những người dân đất Việt phải chịu những nắng mưa cùng cực. Tác giả nguyện khổ cùng đồng bào để gần gũi như một khối đại đoàn kết: “Gần gũi nhau thêm vạn khối đời’’.
Từ lý tưởng muốn được nguyện hi sinh khó khăn gian khổ cùng đồng bào thì khổ thơ cuối cùng cũng chính là sự thể hiện vị thế của mình:
“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ’’
Khổ thơ cũng chính là sự thể hiện bản thân tác giả sẵn sàng xông pha vào những khó khăn hiểm nguy để có thể hoàn thành trọng trách của mình. Điệp từ “là’’ chính là sự nhấn mạnh mối quan hệ giữa tác giả và nhân dân. Tác giả vừa là người em của vạn kiếp phôi pha, gian khổ nhưng cũng sẵn sàng che chở bảo ban cho những người em nhỏ.
Những người em nhỏ chính là những người cũng được giác ngộ tinh thần Cách Mạng là những người đi sau nối tiếp bước chân của nhà thơ Tố Hữu. Dù có phải chịu cảnh không nhà không cửa hay thiếu thốn đủ bề thì tác giả vẫn khẳng định mình sẽ kiên trung một lòng yêu nước, vì khối đại đoàn kết dân tộc. Khối đại đoàn kết đó bao gồm nhân dân, chiến sĩ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Cách Mạng và tầng lớp công nhân. Ba giai cấp nhưng luôn hướng chung về một mục tiêu giữ gìn độc lập tự do cho nhân dân.
Bài thơ chính là lời reo vui sướng của một chàng thanh niên trẻ được giác ngộ lý tưởng Cách mạng với sứ mệnh lớn là bảo vệ độc lập tự do cho nhân dân mà không quản hiểm nguy hay gian khổ. Bài thơ chính là những lời dạy của của người thế hệ đi trước dành cho những người nối tiếp đi sau phải luôn phấn đấu vì sự nghiệp của Đảng để bảo vệ dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 4
Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lý tưởng của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên con đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mạng.
“Từ ấy” là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời và trong cả tâm hồn của nhà thơ. Giây phút ấy khiến nhà thơ vui mừng đến nỗi không thể định nghĩa chính xác được, chỉ biết là “từ ấy”.
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Một loạt những hình ảnh ẩn dụ “ bừng nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “chói qua tim” được nhà thơ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lý tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh. “Bừng nắng hạ” – đó là ánh nắng mùa hè chói chang, mạnh mẽ và rực rỡ, đủ để soi rọi sau những ngày tăm tối. Đó là ánh sáng đến từ “trong tôi”, từ trái tim người chiến sĩ trẻ. Sự xuất hiện của lí tưởng Đảng, của cách mạng đã soi sáng cho tâm hồn nhà thơ, như soi rọi cả những góc khuất nhất trong con người, khiến cho cả con người người chiến sĩ trẻ bừng tỉnh ngộ sau những đêm dài tối tăm.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, nhà thơ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người chiến sĩ trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời ấm áp và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót. Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự háo hức, say sưa, rạo rực và tràn đầy nhiệt huyết của nhà thơ khi tìm được lý tưởng của mình.
Từ giác ngộ lý tưởng, người chiến sĩ trẻ tuổi tiếp tục chọn cho mình một lẽ sống mới:
“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Nhà thơ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn. Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những người cùng khổ, họ dễ cảm thông, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, gần gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi.
Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò, vị trí của mình:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Tố Hữu hòa mình với nhân dân, đã tự nguyện trở thành con, thành em, thành anh của bao quần chúng lao động cực khổ, những con người với kiếp sống “phôi pha”, sống hôm nay chưa biết đến ngày mai, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những đứa trẻ tội nghiệp nghèo khổ đói rách. Từ “là” được nhà thơ sử dụng lặp đi lặp lại, như khẳng định một cách chắc chắn mối quan hệ giữa mình và nhân dân lao động, cũng như một lời khẳng định vai trò của mình đối với người dân, với cộng đồng và xã hội. “Cù bất cù bơ” – một tính từ vô cùng mới mẻ, như những lời nói thường ngày của những người lao động nói chuyện với nhau. Cuộc sống bơ vơ, tác giả nói mình, nhưng cũng là nói chung những người dân quanh mình, những người anh em của mình, đồng thời bày tỏ lòng xót thương của nhà thơ trước tình cảnh bất công, trái ngang của cuộc đời.
“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lý tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì lý tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương đất nước. Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng giản dị, gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 5
Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ "Từ ấy" vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn ca ngợi lý tưởng cách mạng và mang tên tình yêu giai cấp của người chiến sĩ trẻ.
Khổ thơ mở đầu cất lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim".
"Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), nhà thơ vui sướng, hân hoan chào đón "Mặt trời chân lí chói qua tim". Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người chiến sĩ trẻ cảm thấy được hồi sinh "bừng nắng hạ". "Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin. Lí tưởng cách mạng, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở mang tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc đời đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng "tôi" và con đường cách mạng "bừng nắng hạ" chói chang, ấm áp. Trái tim "tôi" có "Mặt trời chân lí chói qua...". Ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lý tưởng, tâm hồn “ đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu "hoa lá", ngào ngạt "đậm hương” và "rộn tiếng chim" hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã chọn lọc một số từ có giá trị gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca ngợi lý tưởng và tình yêu lý tưởng. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà thơ xứ Huế có nhiều vần thơ độc đáo, đậm đà:
"Khi ta đã say mùi hương chân lí
Đời đắng cay không một chút ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng”
("Như những con tàu" - 1938)
Có thể nói, Tố Hữu là nhà thơ viết hay nhất về lí tưởng cách mạng bằng bút pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin thật vô cùng kì diệu. "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” ( Aragông - Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người", "với trăm nơi "với bao hồn khổ" với giai cấp” và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức dã man. Các từ ngữ: "buộc", "trang trải", "gần gũi" - biểu lộ sự gắn bó thiết tha với thế giới cần lao, với "khối đời" - khối công nông liên minh:
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".
Người chiến sĩ trẻ, người thanh niên cộng sản trên con đường cách mạng quyết tâm chiến đấu và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời".
Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: "là con của vạn nhà", "là em của vạn kiếp phôi pha", "là anh của vạn đầu em nhỏ... Các từ: "là", các số từ "vạn" được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha chân thành, thấm thía xúc động:
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ".
Nhà thơ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới "mặt trời chân lý", dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của Cách mạng.
Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca ngợi lý tưởng cách mạng và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách chân thành và say mê. "Từ ấy" là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và Cách mạng. Đọc "Từ ấy" ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: "Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ của mình".
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 6
Nhà thơ Tố Hữu được coi là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ của ông mang đậm chất trữ tình chính trị, dường như cả cuộc đời thơ Tố Hữu dành để ngợi ca đất nước, ngợi ca nhân dân, ngợi ca lí tưởng cách mạng thể hiện một cái tôi say mê với lý tưởng, một cái tôi công dân đầy trách nhiệm đối với nhân dân, đối với đất nước. Nhắc đến ông, ta không thể không nhắc đến những tập thơ nổi tiếng như: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”… trong đó tập thơ đầu tay “Từ ấy” là tập thơ mang một sắc thái riêng, tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu, thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh niên trẻ khi đến với cách mạng. Tác phẩm là cột mốc quan trọng mở đầu cho chặng đường đời, chặng đường thơ của Tố Hữu.
Tập thơ “Từ ấy” là tiếng hát trong trẻo, phấn chấn, say mê của người thanh niên cộng sản khi mới bắt gặp lí tưởng cách mạng. Tập thơ này gồm 71 bài thơ được chia làm 3 phần: Máu lửa, xiềng xích, giải phóng. Trong đó bài thơ “Từ ấy” được rút từ phần 1, phần Máu lửa, được coi là bài thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong tập thơ.
Bài thơ được Tố Hữu viết vào năm 1938, đó là thời điểm Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nó là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời, trong thơ Tố Hữu. Như chính nhà thơ đã từng viết “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh”. Toàn bộ bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng cuộc sống và tác dụng kì diệu của lý tưởng cách mạng đối với quá trình nhận thức cũng như đối với đời thơ Tố Hữu. Bài thơ còn thể hiện quá trình vận động của tâm trạng cũng như nhận thức của người thanh niên trí thức tiểu tư sản sang người trí thức cách mạng giàu lòng yêu nước.
Khổ 1 của bài thơ tập trung diễn tả niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng Cộng Sản. Ở khổ thơ đầu có sự kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp Tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được tác giả viết theo bút pháp tự sự. Lời thơ như một lời kể về một kỉ niệm không thể nào quên trong cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng trẻ:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”.
“Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.
Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lý tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.
Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lý tưởng cộng sản:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấn tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp.
Những nhận thức mới về lẽ sống:
Khi giác ngộ lý tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi”
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lý tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lý tưởng của nhà thơ Tố Hữu.
Nhà thơ khép lại với sự chuyển biến của tình cảm trong nhà thơ Tố Hữu. Từ thay đổi về nhận thức dẫn đến sự thay đổi về tình cảm.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Ở khổ thơ này, nhà thơ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với các tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà: “vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cơ cực, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác giả thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình để đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. Các nhà thơ lãng mạn quan niệm:
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
(Xuân Diệu)
Nhưng quan niệm của các nhà thơ cách mạng, nhà thơ, nhà văn phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng Hồng đã từng viết:
“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”
Hay Hồ Chí Minh đã viết:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nhà thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 7
Tố Hữu gương mặt quen thuộc của thơ ca cách mạng Việt Nam. Đối với ông thơ không chỉ dùng để bày tỏ tình cảm, mà nó còn dùng để cổ vũ, tuyên truyền cho chiến đấu. Tố Hữu để lại sự nhiệp phong phú, đồ sộ, ngay từ tập thơ đầu tay – Từ ấy đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Bài thơ Từ ấy là cảm xúc hân hoan, vui sướng của người thanh niên trẻ tuổi khi được đứng vào hàng ngũ cách mạng của Đảng.
Bài thơ Từ ấy nằm trong tập thơ cùng tên. Tác phẩm được sáng tác tháng 7 năm 1938 khi Tố Hữu được kết nạp Đảng. Bởi vậy, trong cả bài thơ là niềm hân hoan, hạnh phúc khi bắt gặp lí tưởng của Đảng. Nhan đề bài thơ mang tính phiếm chỉ, không rõ thời gian, địa điểm nào. Nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra “từ ấy” chính là để nhắc đến bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu.
Ngày vào Đảng đối với tất cả mọi người không chỉ là niềm vui mà còn là niềm vinh dự, khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng để cống hiến cho đất nước. Chế Lan Viên cũng từng nghẹn ngào, ghi lại khoảnh khắc khi được ánh sáng, lí tưởng của Đảng soi đường:
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng nước mắt
Đá sỏi cây cằn, sao bỗng thấy thiêng liêng?
Giọng nói quen nghe, màu đất quen nhìn
Bỗng chan chứa trăm điều chưa nói hết
Và đối với Tố Hữu cũng như vậy, ngày được kết nạp đảng lòng ông vui sướng, say mê khi mình đã lựa chọn con đường đúng đắn, đã bắt gặp lí tưởng của Đảng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
“Từ ấy” là một mốc son chói lọi, là khoảnh khắc lịch sử của mỗi đời người, là phút huy hoàng trong cuộc đời Tố Hữu. Nếu trước đây dù yêu nước, thương dân nhưng ông lại hoàn toàn bế tắc khi không tìm được lối đi cho mình để giải phóng dân tộc, thì đến đây ông đã có thể yên tâm với con đường mình lựa chọn. Con đường này đầy chông gai, hiểm nguy nhưng hứa hẹn một tương lai tươi sáng đang mở ra trước mắt. Trong câu thơ này, Tố Hữu sử dụng liên tiếp các hình ảnh ẩn dụ: “nắng hạ” là nguồn ánh sáng rực rỡ, đầy sức sống, để diễn tả niềm hạnh phúc, vui sướng đong đầy tâm hồn nhà thơ trong ngày kết nạp Đảng. Đẹp đẽ hơn là hình ảnh “mặt trời chân lí”, đó là ánh sáng lí tưởng của Đảng, của cách mạng đã tỏa rạng muôn nơi, soi đường, chỉ lối cho con người. Nếu mặt trời là sự sống của vạn vật, thì ánh sáng của Đảng chính là mặt trời của muôn nghìn nhân dân Việt Nam. Lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới đã làm thức tỉnh lí trí, mang đến cho tác giả nguồn sức mạnh kì diệu. Đồng thời, ông còn liên tiếp sử dụng các động từ mạnh: bừng, chói, cho thấy tác động đột ngột, mạnh mẽ của ánh sáng cách mạng đã xua tan đêm tối của dân tộc, mở ra một con đường mời. Niềm vui niềm hạnh phúc đã được Tố Hữu diễn tả trực tiếp ở hai câu thơ tiếp:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sử dụng biện pháp so sánh, Tố Hữu đã khẳng định tâm hồn ông khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi tựa như một vườn hoa lá tươi tốt, và trở nêm đậm hương đậm sắc, tràn đầy sức sống. Tâm hồn tác giả được tiếp nhận ánh sáng của Đảng trở nên mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực, để ông sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn.
Sau khi được kết nạp vào Đảng, Tố Hữu có sự chuyển biến mạnh mẽ về lẽ sống: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người/ Để tình trang trải với trăm nơi/ Để hồn tôi với bao hồn khổ/ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Mặc dù nói đến cái tôi nhưng không hề cô lập, riêng lẻ, mà là cái tôi hòa nhập, gắn kết với mọi người. Cái tôi cá nhân không tách biệt quần chúng mà hòa nhập, xích gần lại với họ. Tố Hữu sử dụng hàng loạt động từ để khẳng định sự gắn kết này: buộc, trang trải, gần gũi nhau để tạo nên “một khối đời” lớn mạnh, cùng nhau chống lại kẻ thù chung. Câu thơ nhấn mạnh sức mạnh đoàn kết của con người trong công cuộc đấu tranh cách mạng: mỗi cá nhân sẽ làm cho khối đời chung trở nên mạnh hơn, ngược lại, khối đời chung ấy sẽ giúp cho mỗi cá nhân tăng thêm sức mạnh cho mình, vững tâm hơn, tin tưởng hơn.
Không chỉ chuyển biến trong nhận thức mà Tố Hữu còn có cả sự chuyển biến về mặt tình cảm:
Tôi đã là con của vạn nhà
Em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Cái tôi đứng giữa và hòa nhập vào quần chúng lao khổ, Tố Hữu đã là thành viên của gia đình ấy. Biện pháp lặp cấu trúc: là anh, là con, là em thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít như ruột thịt khi hòa nhập vào đại gia đình. Qua đó Tố Hữu cũng diễn tả trách nhiệm lớn lao của bản thân cần phải đi cứu vướt cuộc đời những “vạn đầu em nhỏ” “vạn kiếp phôi pha”. Họ là những kiếp sống lầm than, cơ cực nhất trong xã hội, bởi vậy cần phải giải phóng họ để họ được sống cuộc đời tự do, hạnh phúc.
Bài thơ sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ. Cách ngắt nhịp vô cùng linh hoạt kết hợp với phép điệp tạo nên nhạc tính cho bài thơ. Không chỉ vậy còn diễn tả được niềm say mệ, háo hức khi được kết nạp vào Đảng. Đồng thời kết hợp giữa tự sự và trữ tình một cách hài hòa, đã đem lại hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
Từ ấy là một bài thơ hay, đặc sắc trong đời thơ Tố Hữu. Tác phẩm là niềm say mê, vui sướng mãnh liệt trong ngày đầu bắt gặp lí tưởng cách mạng. Đó là mốc son chói lọi, đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc đời mới, đây cũng là mốc đánh dấu sự khởi đầu của một hồn thơ. Kết hợp với các biện pháp nghệ thuật, giọng điệu linh hoạt đã tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 8
Tố Hữu (1920 – 2002) là một nhà thơ lớn của dân tộc, là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thi sĩ và chiến sĩ của Tố Hữu luôn song hành với nhau. Trên hành trình vừa làm chiến sĩ vừa làm thi sĩ, Tố Hữu đã có nhiều cột mốc quan trọng nhưng cột mốc đáng chú ý nhất là cột mốc khi giác ngộ lý tưởng Đảng vào 1937.
Ở thời điểm này, Tố Hữu đã có một bài thơ ghi lại ấn tượng của buổi đầu ấy, bài thơ có tên “Từ ấy”. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên, là một trong những bài thơ đặc sắc của Tố Hữu. Bài thơ là tiếng reo vui của người thanh niên trai trẻ Tố Hữu khi được giác ngộ lý tưởng Đảng và nhận thức mới của người thanh niên ấy khi đi với cách mạng. Tiếng reo vui của buổi đầu đi với cách mạng được Tố Hữu thể hiện một cách rất hình ảnh và sinh động.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
.............
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Nhà thơ Tố Hữu sinh năm 1920, thời tuổi trẻ sống trong đêm trường nô lệ nhưng may mắn cho Tố Hữu là năm 1937 được giác ngộ cách mạng, rồi 1939 được kết nạp vào Đảng. Đó là thời kỳ Tố Hữu chuyển mình từ một thanh niên học sinh sang làm một chiến sĩ cộng sản. Tố Hữu đã ghi lại tâm trạng của thời kỳ này đó là thời kỳ thời điểm mà nhà thơ reo vui khi gặp lý tưởng Đảng.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
“Từ ấy” là thời điểm người thanh niên Tố Hữu đến với cách mạng, được giác ngộ lý tưởng Đảng. Thời điểm ấy trong tâm hồn nhà thơ có một sự nồng ấm nồng nhiệt của một nhiệt huyết cách mạng mà nhà thơ đã cảm giác như một thứ nắng hạ chói chang.
Cảm giác ấy là vì lý tưởng Đảng, ánh sáng cách mạng như là “mặt trời chân lý” bừng sáng “chói qua tim”. Tim là nơi hội tụ của tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, ánh sáng chân lí chói qua tim là một sự sáng bừng sáng tỏ trong tình cảm, trong nhận thức của người thanh niên cách mạng.
Sau khi được ánh sáng Đảng, lý tưởng cách mạng như mặt trời chân lý rọi vào sáng tỏ thì nhà thơ cảm thấy tâm hồn mình như được hồi sinh.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
Như ta đã biết trong bài thơ “Một nhành xuân” 1980, Tố Hữu đã tự thuật lại quãng đời trước khi gặp lý tưởng Đảng rằng:
“Tôi đã khô như cây sậy ven đường
Đâu ước làm chim thơm và trái ngọt
Tôi đã chết im lặng như con chim không bao giờ được hót
Một tiếng ca lánh lót cho đời”.
Một tâm hồn khô héo như thế này bỗng nhiên trỗi dậy hồi sinh. Nhà thơ cảm thấy trong tâm hồn mình xanh tươi như “một vườn hoa lá” có hương sắc hương thơm và cả “rộn tiếng chim”. Cũng có nghĩa là tâm hồn như được sống lại, rạo rực mê say, có đủ âm thanh màu sắc.
ó có hình ảnh nào ví về sự hồi sinh tâm hồn hình ảnh hơn thế, sinh động hơn thế. Bốn câu thơ mở đầu với những hình ảnh thơ mới lạ sáng tạo, nhà thơ vừa thể hiện được cảm giác reo vui khi lý tưởng Đảng soi rọi vào tâm hồn mình, khi tâm hồn mình được hồi sinh dưới ánh sáng chân lý Đảng.
Sau khi tiếp nhận lý tưởng Đảng và hồi sinh tâm hồn, người thanh niên cộng sản Tố Hữu đã có một sự thay đổi về nhận thức, đó là phải gắn bó yêu thương những người lao khổ để xiết chặt đội ngũ chiến đấu, tác giả viết:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
Nếu như các nhà thơ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:
“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”.
Hay như Chế Lan Viên thì nói:
“Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.
Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi”.
Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó đoàn kết với mọi người với nhân dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó đoàn kết chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.
Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm nhà thơ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh đội ngũ chiến đấu. Như vậy quan niệm về gắn bó và chia sẻ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.
Khổ thơ thứ hai nhà thơ đã phản ánh kết quả của lý tưởng Đảng được soi chiếu vào tâm hồn nhà thơ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi người vì cách mạng. Sau khi diễn tả quá trình tiếp nhận ánh sáng Đảng, sự thay đổi nhận thức cuộc sống, nhà thơ đi đến nêu lên trách nhiệm của mình đối với cuộc đời đối với cách mạng. Trách nhiệm đó được nhà thơ thể hiện rất cụ thể:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Với vạn nhà thì làm con, với những kiếp phôi pha là quá khứ cha ông thì làm em, còn với những em nhỏ cù bất cù bơ thì làm anh. Con của mọi nhà thì phải trung hiếu với mọi nhà, em của kiếp phôi pha thì phải noi gương tiếp bước cha ông trong quá khứ, còn làm anh của đàn em nhỏ thì phải nâng đỡ che chở cứu rỗi cho họ.
Nhà thơ nêu lên trách nhiệm của mình nhưng không phải chung chung mà rất cụ thể, rất đúng với vai trò của người thanh niên trong thời điểm thời bấy giờ. Đặc biệt ở khổ thơ này tác giả có đề cập đến hình ảnh làm anh những đàn em nhỏ cù bất cù bơ, đó cũng chính là một trách nhiệm đối với những hồn lao khổ mà tác giả đã nói ở phần thơ trên.
Bài thơ “Từ ấy” đã ghi lại một cột móc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Đọc bài thơ này, người đọc cảm nhận được một Tố Hữu trong buổi đầu đến với cách mạng đã rất nồng nhiệt tiếp nhận ánh sáng lý tưởng Đảng và có một sự thay đổi khá toàn diện về nhận thức về nhân sinh quan và thế giới quan.
Tuy viết về một thời khắc lịch sử, một thời điểm lịch sử hoạt động cách mạng của mình nhưng Tố Hữu không diễn đạt một cách khô khan mang tính khẩu hiệu, mà trái lại được diễn đạt một cách sinh động qua những hình ảnh rất gợi hình gợi cảm. Vì thế một bài thơ cách mạng những vẫn xanh tươi trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 9
Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của ông. Và "Từ ấy" ra đời như một kết quả tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng.
"Từ ấy" được sáng tác năm 1938, in trong tập thơ đầu tay của ông. Cả tập thơ là tiếng ca mừng reo vui chân thành, háo hức, đầy nhiệt thành của người thanh niên Cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và Giải phóng. Bài thơ "Từ ấy" được trích trong phần đầu "Máu lửa", cả bài thơ là những dòng cảm xúc của Tố Hữu khi lần đầu tiên cảm nhận được lý tưởng lớn lao, niềm tự hào đứng trong hàng ngũ Cách mạng, đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong cuộc đời của ông.
Về nhan đề "Từ ấy", đây chỉ là một từ ngữ phiếm chỉ của thời gian, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời Tố Hữu, đánh dấu sự trưởng thành trong sự nhận thức cũng như tình cảm của ông. Nó cũng diễn tả niềm vui, cảm xúc, sự rung động, biến đổi khó quên nhất trong tâm hồn của ông để giây phút ấy, ông chỉ có thể nghẹn ngào, thốt lên hai tiếng "từ ấy". Chính mốc thời điểm ấy đã tạo nên bước chuyển biến mới lạ, tươi sáng trong tâm hồn và hồn thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi – Tố Hữu.
Tố Hữu xuất thân từ một chàng trai tiểu tư sản, con của một nhà nho nghèo, sống tại Huế. Có thể vì vậy mà đến năm mười hai tuổi, khi được ra học tại Quốc học Huế, được tiếp xúc với tư tưởng Mác – Lênin cùng với tư tưởng của Đảng Cộng Sản mà ông mới được tìm hiểu và được tiếp xúc với lý tưởng Cách mạng . Tới năm mười tám tuổi, khi được chính thức đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng, Tố Hữu mới hiểu rõ, lý tưởng Cách mạng đã thay đổi cuộc đời ông thế nào, để rồi từ đó, ông vui mừng, rộn rã mà thốt lên rằng:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim".
Niềm vui mừng khôn xiết khiến cho Tố Hữu không nói lên lời, ông vui sướng, say mê khi lần đầu tiên bắt gặp lý tưởng Cách mạng, ông ngập ngừng lên tiếng "từ ấy trong tôi bừng nắng hạ". "Từ ấy" là lúc nào? Phải chăng là lúc nhà thơ vừa tròn mười tám tuổi, cái tuổi còn chông chênh, chưa hiểu được cuộc đời, chưa rõ phải bước đi về đâu, như ông đã viết trong "Dậy lên thanh niên" rằng:
"Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi".
Cái "bâng khuâng" mơ hồ ấy của người thanh niên trẻ đã được ánh sáng của lý tưởng cộng sản chiếu tới, để rồi "từ ấy", trong lòng ông bừng lên một thứ ánh sáng khác lạ, tươi tắn, rạng rỡ "nắng hạ". Hình ảnh "nắng hạ" là một ẩn dụ cho nguồn năng lượng mới mẻ, thứ ánh sáng chói lòa mà lý tưởng đã làm bừng cháy trong tâm hồn cả Tố Hữu. Nguồn nắng hè ấy chiếu rọi lên tâm hồn còn đang bơ vơ của ông, sưởi ấm nó, dẫn nó tới một con đường đúng đắn.
Hơn thế, Tố Hữu còn ví von lý tưởng Cách mạng như một "mặt trời chân lý". Đây là từ ngữ liên kết vô cùng sáng tạo trong cả hình ảnh và ngữ nghĩa. Lý tưởng Cộng sản là một nguồn sáng cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, như ánh mặt trời soi tỏ thế gian, như một chân lý không bao giờ thay đổi. Ở đây, người ta như thấy một sự rưng rưng, đầy biết ơn của Tố Hữu dành cho nguồn lý tưởng rực rỡ ấy. Từ trong tăm tối, Tố Hữu bước ra ngoài ánh mặt trời chói chang, tận hưởng nó bằng tất cả tình yêu, niềm hạnh phúc, biết ơn.
Ông cũng liên tục sử dụng các động từ mạnh như "bừng, chói" để diễn tả cảm giác khi được ánh sáng Cách mạng soi sáng đường đời. Những động từ này thể hiện sự đột ngột, bất ngờ, như chính tác giả cũng được chiếu rọi một cách bất ngờ như thế, đồng thời nó nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, mạnh mẽ, quyết liệt trong tâm hồn của nhân vật thơ.
Hai câu thơ đầu như một lời kể tự sự vừa du dương lại đầy tình cảm chân thành, đặc biệt là câu thơ "mặt trời chân lí chói qua tim". Người ta cũng nhận thấy có một sự đột ngột khi người thanh niên trẻ tuổi được lý tưởng cách mạng soi đường và thêm nữa là cái tác động mạnh mẽ của nó lên trái tim, cảm xúc, tâm hồn nhà thơ. Nhà thơ đã nhấn mạnh sự tác động của lý tưởng đó lên mặt nhận thức của mình, cũng như trên phương diện tâm hồn, tình cảm, để từ đó, trái tim nhà thơ được sưởi ấm, được chiếu sáng rạng ngời.
Tiếp theo, Tố Hữu cảm nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt nhất trong tâm hồn ông rằng:
"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"
Nếu như trước đây, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng chỉ là những nỗi lo toan, sự mơ hồ, lênh đênh, mù mịt không rõ phương hướng thì giờ đây, sau khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, tâm hồn ấy chợt nảy nở, sinh sôi một cách diệu kì. Một khu vườn tâm hồn bao trọn cả một vườn cây với hoa trái, quả ngon, hương thơm và cả chim chóc nữa. Phép so sánh ấy thực tài tình và sáng tạo quá! Một tâm hồn đã giác ngộ Cách mạng giờ đây trở nên sinh động, đổi mới, bừng dậy thật sống động, dâng trào một nguồn sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tất cả những âm thanh, màu sắc trong khu vườn tâm hồn ấy đều rất tươi đẹp, rất tràn trề, rộn rã khiến cho nhà thơ phải ngây ngất mà say mê. Lối thơ vắt dòng quả đã khiến cho hai câu thơ thêm phần thú vị và sáng tạo biết bao!
Qua khổ thơ đầu tiên, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã đến với lý tưởng Cách mạng bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và nhận thức, bằng tất cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả người đọc chúng ta.
Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của nhà thơ mà còn thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên công cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong lý trí của người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi.
"Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên những người lao động nghèo vì thế ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm tình của giai cấp vô sản. Thế nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao quý ấy, ông đã nhận ra rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái ta chung của xã hội, của mọi người. Chính vì thế, ông tình nguyện "buộc lòng" mình với "mọi nhà" để mà cảm nhận được, để mà hòa chung với "bao hồn khổ" khác. Động từ "buộc" ở đây không có nghĩa là bắt buộc mà trái lại nó lại là một hành động tự nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.
Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, "trang trải" để tâm hồn mình được trải rộng ra với cuộc đời mà thấu hiểu, đồng cảm với mỗi con người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có được sự chuyển biến vô cùng lớn lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.
Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn "bâng khuâng" mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã hiểu được rằng tình thần đoàn kết, sự yêu thương dành cho quần chúng lao động, sự sát cánh cùng nhau của nhà thơ với những kiếp người sẽ tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Hình ảnh thơ được nhà thơ sử dụng "khối đời" là hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung cảnh ngộ với nhau, cùng đồng sức đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy quyền sống, quyền được độc lập tự do.
Nhà thơ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với thế giới xung quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không còn thờ ơ trước cuộc đời nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và bằng cả trái tim giàu tình yêu thương, hữu ái giai cấp nữa. Để miêu tả điều đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của mình cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào tinh thần đoàn kết của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta chung của mọi con người.
Nhận thức luôn song hành cùng tình cảm, lý trí luôn song hành cùng tâm hồn. Vậy nên nếu như ở khổ trên, nhà thơ đã nhận thấy sự chuyển biến trong nhận thức của mình thì ở đây, nhà thơ lại nhận thấy sự chuyển biến thật mạnh mẽ trong tình cảm của mình.
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ".
Tấm lòng kiên trung của người chiến sĩ trẻ muốn mang đến cho những lớp người kia có được áo cơm, có được sự bình an, no ấm, bớt đi nỗi cực nhọc. Chính vì vậy, ở khổ thơ cuối này, ông đã khẳng định vị thế của mình, khẳng định trách nhiệm cũng như mong ước được chở che, bao bọc, gắn bó với mọi người.
Ông tự nhận mình là "con", "là em", "là anh" của "vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu em nhỏ". Ông coi những người ở tầng lớp vô sản ngoài kia là ruột thịt của mình, đặt lên vai mình thứ trách nhiệm nặng nề, ông muốn được gắn bó với họ, cùng nhau gánh vác, cùng nhau chia sẻ chứ không muốn trở thành một kẻ bề trên mà ban ơn cho họ.
Động từ "đã là" cho thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của ông dành cho mọi người và thứ tình cảm ấy dường như đã có từ rất lâu. Đặt trong tình huống, Tố Hữu vốn là một tiểu tử sản, vốn là tầng lớp đề cao lối sống cá nhân, vị kỷ vậy mà ở đây, ông lại san sẻ tất cả tình cảm của mình mà không hề tính toán, so đo. Có lẽ chính cái lý tưởng Cách mạng ấy đã soi đường, đã chiếu rọi biến đổi nhận thức cũng như tình cảm của Tố Hữu.
Nhà thơ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp trong xã hội để hòa mình vào trong giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm chân thành. Thế mới biết sức mạnh của lý tưởng Cách mạng to lớn đến nhường nào, nó đã cảm hóa, biến đối những người trí thức tiểu tư sản, vốn có lối sống cá nhân, biến họ trở thành những con người của Cách mạng, trở thành những thi sĩ của Cách mạng, không còn quẩn quanh trong cái chủ nghĩa cá nhân ích kỉ. Điều này, chúng ta không chỉ thấy riêng ở Tố Hữu mà còn trong lớp các nhà thơ nhà văn khác như Huy Cận, Xuân Diệu, …
Với thể thơ thất ngôn quen thuộc, cùng cách thể hiện đầy nhịp nhàng, khúc chiết, nhà thơ đã viết lên một tác phẩm với những cảm xúc chân thành nhất để ca ngợi sức mạnh của lý tưởng Cách mạng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh hết sức thú vị đã diễn tả niềm vui, niềm hân hoan, vui sướng vô bờ của một chàng trai trẻ khi đang băn khoăn tìm lối đi cho cuộc đời thì bắt gặp được ánh sáng của Cách mạng chiếu rọi để từ đó dấn thân vô, hòa nhập với các mối quan hệ, với các tầng lớp khác đấu tranh cho quyền sống, độc lập tự do của dân tộc. Ngôn từ trong thơ vô cùng chân thành, giản dị, hình ảnh thơ được so sánh, bộc lộ tư tưởng Cách mạng rất sâu sắc. Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu trong thơ ca Cách mạng.
"Từ ấy" đã đánh dấu bước ngoặt trưởng thành vô cùng lớn lao của nhà thơ Tố Hữu trên chặng đường Cách mạng. Nó là tiếng reo mừng, sung sướng của một người thanh niên trẻ khi tìm được đường đi cho mình để từ đó, quyết tâm đem sức mình cống hiến cho Tổ quốc, đó là tấm gương để lớp trẻ chúng ta noi theo.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 10
Tố Hữu là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng Việt Nam với những tác phẩm tự sự nhưng dạt dào tình cảm. “Từ ấy” là bài thơ rút trong tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mạng. Bài thơ chính là tiếng reo vui của tác giả khi được đứng trong hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam.
“Từ ấy” là một từ chỉ thời gian đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa lớn trong cuộc đời của người thanh niên cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành, lớn lên về tâm hồn cũng như lý tưởng cách mạng. Giây phút ấy khiến cho tác giả nghẹn ngào, dường như không nói được nên lời, chỉ có thể dồn trong hai từ “từ ấy”. Từ ấy chính là cảm xúc chủ đạo của bài thơ, là tiếng lòng reo vui, rộn rã, tràn ngập tin yêu của một người thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng. Sau thời gian xác định “từ ấy” chắc chắn người thanh niên đó sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc đời cũng như trong con đường hoạt động cách mạng của mình.
Tác giả đã mở đầu bằng một lời thơ rộn ràng, tràn ngập tin yêu:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Tác giả vui mừng không nói nên lời, chỉ biết ngập ngừng “từ ấy”, và sau thời gian “từ ấy” đó chính là những bước ngoặt cũng như sự giác ngộ lý tưởng lớn. Một loạt hình ảnh ẩn dụ “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đều mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi sáng, tốt đẹp, rạng ngời nhất. Từ “bừng” ở câu thơ đầu tiên như làm sáng lên cả bài thơ, từ bừng mang ý nghĩa là thức tỉnh, một sự thức tỉnh có quá trình. Nắng hạ là thứ nắng chói chang, nắng đẹp, tràn ngập niềm vui và sức sống. Tác giả như bước ra, thoát khỏi chốn tăm tối, bế tắc, không lối thoát của cuộc đời để đến với ánh sáng của cách mạng và niềm tin. Giây phút được bước vào hàng ngũ của đảng như là “chân lý”, điều đáng trân trọng một đời.
Sự chuyển biến rõ nhất diễn ra trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sự thức tỉnh và giác ngộ cách mạng khiến tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như một vườn hoa tràn ngập tiếng chim và rực rỡ sắc hoa. Phép so sánh ấy thực sự rất tài tình và đầy ý nghĩa. Một tâm hồn thực sự sinh động, tràn đầy sức sống, tác giả đã biến cuộc đời mình tràn ngập niềm tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này nhưng dường như cả bài thơ đã được vẽ lên bằng một gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.
Sự giác ngộ trong lý tưởng cách mạng đó đã hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn:
Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải đến trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm vạn khối đời
Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ nét cái tôi cá nhân vừa bộc lộ cái ta rộng lớn, bao la nhất. Từ “buộc” ở câu thơ đầu tiên gợi lên cảm giác gắn bó đối với người chiến sĩ cách mạng với mọi người. Từ “buộc” chính là sợi dây, là con đường, là lẽ sống mà người chiến sĩ đã lựa chọn và theo đuổi đến cùng. Với một tấm lòng kiên trung, tình yêu thương rộng lớn, người chiến sĩ muốn mang đến sự bình an, ấm no nhất cho nhân dân, để có thể cùng nhân dân gánh bớt nỗi khổ, cực nhọc.
Từ chân lý muốn được bao bọc, chở che, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối chính là lời khẳng định vị thế của mình:
Tôi là con của vạn nhà
Là anh của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Khổ thơ mang ý nghĩa liệt kê nhưng nó vẫn toát lên được tình cảm, sự tin yêu và gắn bó của người chiến sỹ đối với toàn thể nhân dân.Từ “là” được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh mối quan hệ hiên nhiên giữa mình với nhân dân, gắn bó với họ, cùng san sẻ, cùng gánh vác khổ đau, đương đầu với sóng gió, quyết không để lùi bước. Tinh thần ấy của tác giả thực sự đáng ngưỡng mộ và khâm phục. Tác giả coi mình cũng như một người vô danh “cù bất cù bơ” nhưng có tinh thần đoàn kết và kiên trung
Quả vậy, “Từ ấy” là bài thơ ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của một con người và của một chặng đường cách mạng gian nan. Tiếng reo vui của tác giả như hòa chung vào với niềm vui chung của nhân dân.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 11
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.
Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.
Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca. Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ.
Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chinh lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.
Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim... vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của "cái tôi trữ tình cách mạng". Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.
Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao "cái tôi cá nhân". Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi cá nhân" và "cái ta tập thể". Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của "cái tôi cá nhân" để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi "cái tôi" chan hòa trong "cái ta", khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.
Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là... lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết. Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm...)
Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. "Cái tôi trữ tình" lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 12
Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên con đường tìm kiếm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mạng.
“Từ ấy” là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời và trong cả tâm hồn của nhà thơ. Giây phút ấy khiến nhà thơ vui mừng đến nỗi không thể định nghĩa chính xác được, chỉ biết là “từ ấy”.
“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Một loạt những hình ảnh ẩn dụ “ bừng nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “chói qua tim” được nhà thơ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lí tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh. “Bừng nắng hạ” – đó là ánh nắng mùa hè chói chang, mạnh mẽ và rực rỡ, đủ để soi rọi sau những ngày tăm tối. Đó là ánh sáng đến từ “trong tôi”, từ trái tim người chiến sĩ trẻ. Sự xuất hiện của lí tưởng Đảng, của cách mạng đã soi sáng cho tâm hồn nhà thơ, như soi rọi cả những góc khuất nhất trong con người, khiến cho cả con người người chiến sĩ trẻ bừng tỉnh ngộ sau những đêm dài tối tăm.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, nhà thơ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người chiến sĩ trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời ấm áp và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót. Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự háo hức, say sưa, rạo rực và tràn đầy nhiệt huyết của nhà thơ khi tìm được lí tưởng của mình.
Từ giác ngộ lí tưởng, người chiến sĩ trẻ tuổi tiếp tục chọn cho mình một lẽ sống mới:
“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Nhà thơ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ cay đắng ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn. Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. Những người cùng khổ, họ dễ cảm thông, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, gần gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi.
Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò, vị trí của mình:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Tố Hữu hòa mình với nhân dân, đã tự nguyện trở thành con, thành em, thành anh của bao quần chúng lao động cực khổ, những con người với kiếp sống “phôi pha”, sống hôm nay chưa biết đến ngày mai, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những đứa trẻ tội nghiệp nghèo khổ đói rách. Từ “là” được nhà thơ sử dụng lặp đi lặp lại, như khẳng định một cách chắc chắn mối quan hệ giữa mình và nhân dân lao động, cũng như một lời khẳng định vai trò của mình đối với người dân, với cộng đồng và xã hội. “Cù bất cù bơ” – một tính từ vô cùng mới mẻ, như những lời nói thường ngày của những người lao động nói chuyện với nhau. Cuộc sống bơ vơ, tác giả nói mình, nhưng cũng là nói chung những người dân quanh mình, những người anh em của mình, đồng thời bày tỏ lòng xót thương của nhà thơ trước tình cảnh bất công, trái ngang của cuộc đời.
“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của nhà thơ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chiến đấu hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì đất nước. Họ là những người chiến sĩ trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương đất nước. Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng giản dị, gần gũi, là đại diện cho một lớp nhà thơ mới.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 13
Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.
“Dù ai thay ngựa giữa dòng
Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”
Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lê Nin trong ngày hội lớn của cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vấn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.
“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”
Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:
“Mặt trời chân lí chói qua tim”
Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mạng cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.
Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 14
Bài thơ "Từ ấy" - Tố Hữu được viết năm 1938, bài thơ là tiếng lòng của một người cách mạng trên con đường đi tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của Đảng, của Bác. Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc dâng trào và sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm cuả chính tác giả.
Bài thơ được viết trong khoảng thời gian (1937 - 1946), đây là thời gian đầu Tố Hữu tham gia cách mạng, trở thành một người chiến sĩ. "Từ ấy" là bài thơ được viết trong giai đoạn này, cũng là bài thơ đánh dấu sự trưởng thành trong tâm hồn tác giả.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
"Từ ấy" chỉ một mốc thời gian, mốc son đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc đời Tố Hữu khi bắt gặp được lý tưởng sống cho chính cuộc đời mình. Đó còn là tiếng reo hò sung sướng tột bậc, niềm hạnh phúc ngập tràn khi trở thành một người cách mạng, được ánh sáng của Đảng và Bác dẫn đường. Nhà thơ đã miêu tả nó như "nắng hạ", như ánh sáng sáng rực rỡ, chói chang của mùa hè, soi tỏa vào trong chính trái tim đang sôi sục tuổi trẻ của nhà thơ. Ánh sáng đó được ẩn dụ như hình ảnh "mặt trời". Nếu như mặt trời thật đem lại ánh sáng ấm áp cho vạn vật, là nguồn sống cho muôn loài, thì "mặt trời chân lý", mặt trời của Đảng xuất hiện đã xua tan màn sương mù tối tăm, đem lại một lẽ sống mới không chỉ cho chính tác giả, còn cho cả dân tộc Việt Nam, đang chìm đắm trong đói khổ với tư tưởng tiểu tư sản. Tố Hữu đã sử dụng những động từ mạnh như "bừng, chói" để diễn tả một cách mạnh mẽ ảnh hưởng to lớn cho ánh sáng của Đảng khiến cho người cách mạng như bừng tỉnh sau những ngày tăm tối.
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sự chuyển biến sâu sắc đó, như một sức mạnh kỳ diệu, nó được bắt nguồn từ chính con người tác giả khi được Đảng soi đường, chỉ lối. Khiến cho tâm hồn của người chiến sĩ trẻ như rộn ràng, tràn đầy sức sống. Nhà thơ đã so sánh nó như "một vườn hoa lá" với đủ sắc hương của đất trời, cả sự sống đang sinh sôi, nảy nở, nhảy múa hát ca, rộn ràng tiếng chim hót. Dường như sau những ngày tăm tối, không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn thấy tương lai, cùng với khi huyết của tuổi trẻ mong muốn được thay đổi, được cống hiến cho đất nước đánh đuổi giặc ngoại xâm thì giờ đây khi có "mặt trời chân lý" của Đảng dẫn dắt làm cho tâm hồn nhà thơ trẻ lại, sục sôi ý chí đấu tranh, khơi dậy sức sống và cảm hứng sáng tạo mới cho tác giả.
Ở khổ thơ thứ hai, từ sau khi gặp được chân lý của cuộc đời mình nhà thơ đã có những sự thay đổi đặc biệt trong nhận thức, trong con đường làm cách mạng của mình
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Trước khi được trở thành một nhà cách mạng, được giác ngộ lý tưởng mới thì Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Với tư tưởng tiểu nông hạn hẹp thì giờ đây nhà thơ đã có cách nhìn nhận mới trong suy nghĩ. Nhà thơ đã bỏ qua sự hẹp hòi của tư tưởng cũ, vượt qua những rào cản định nghĩ của giai cấp để thấu hiểu quần chúng khổ lao. Đây là không phải là sự ép buộc mà nhà thơ đã tự nguyện "buộc", tự nguyện gắn mình với "mọi người", với những tầng lớp bần cùng của xã hội. Đem trái tim mình hòa cùng nhịp đập, cùng đau tiếng đau của đồng bào, cùng chia sẻ những mất mát, đắng cay ngọt bùi mà nhân ta đang chịu đựng. Nhà thơ mong muốn gây dựng những con người đang chịu cảnh nô lệ trở thành "khối đời" một khối thống nhất, như anh em ruột thịt, taọ nên một sức mạnh tập thể, không gì có thể đàn áp được
Bốn câu thơ cuối thể hiện rõ tấm lòng, sự đồng cảm của chính nhà thơ, lời khẳng định trong con đường làm cách mạng
Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Nhà thơ đã sử dụng điệp từ, cùng với những "con, em, anh", như một sự khẳng định chắc chán sự gắn bó giữa mình với nhân dân lạo động. nhà thơ như một thành viên trọng gia đình của mọi tầng lớp trong xã hội. Tố Hữu hòa mình cùng với nhân dân. Nhà thơ tự nguyện làm "con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ", nguyện mang cả cuộc đời mình để đem lại hạnh phúc cho những mảnh đời bất hạnh, những kiếp sống mòi mỏi trong tuyệt vọng, những đứa bé tội nghiệp. Qua đó, ta còn cảm nhận được sự căm ghét sâu sắc trong lòng tác giả đối với những cảnh bất công trong xã hội, chính những mảnh đời đáng thương đó mà nhà thơ đi theo cánh mạng, đi theo tiếng gọi của tổ quốc, hăng say chiến đấu, hăng say sáng tác
Bài thơ là tiếng lòng, tiếng reo mừng sung sướng của không chỉ tác giả mà đại diện cho thế hệ trẻ của đất nước lúc bấy giờ khi tìm thấy lý tưởng của Đảng. Là sự nhận thức mới, cách nghĩ mới, đem tuổi trẻ cống hiến cho đời và cho tổ quốc.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 15
Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc qua trọng trong cuộc đời của chính mình.
Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”
“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được dùng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời của tác giả. Tại thời điểm đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả. Đó là khi tác giả được giác ngộ Cách mạng, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương - một bước ngoặt đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong cuộc đời. Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” - một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lê-nin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một con đường mới cho cuộc đời.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Nắm bắt được chân lý, tác giả như tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu dùng biện pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác giả như một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa - một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống. Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết.
Đến khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”
Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh cá nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối đoàn kết. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “ trang trải đến trăm nơi”. Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận bất hạnh để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và giúp đỡ lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người. Và đặc biệt, khi mọi người có tinh thần đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, che chở cho nhau thì sẽ giúp cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” - hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung cảnh ngộ, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “gần gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn - một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.
Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.
“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.”
Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong cuộc đời . Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người. Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời bất hạnh, đầy khó khăn đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. Nếu như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi cá nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết các giai cấp trong xã hội.
“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. Các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công kết hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.
Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang đến niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã nhận ra sứ mệnh của cuộc đời mình. Phân tích Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận đượ sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 16
Bài thơ Từ ấy là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937) của nhà Thơ Tố Hữu, khi ông được kết nạp Đảng năm 1938. Qua tác phẩm của mình ông thể hiện giác ngộ khi gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Hay nó chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu - là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh.
Xuyên suốt bài thơ là niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.
Mở đầu bài thơ ông đã diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng. Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự: Từ ấy trong tói....Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Từ ấy. là lúc nhà thơ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời chân lí cách mạng soi sáng đường đời.
Hình ảnh ẩn dụ nắng hạ cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ mặt trời chân lí là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng diệu kì của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản - ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.
Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim. Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh thang tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.
Tiếp nối mạch cảm xúc toàn bài thơ, khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức về lẽ sống. Hai dòng thơ mở đầu khổ hai: nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân với cái ta chung của mọi người.
Động từ buộc là một động từ mạnh thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua ranh giới của cái tôi để chan hòa mọi người "Tôi buộc lòng tôi với mọi người". Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến trăm nơi (hoán dụ) và trang trải sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ thể.
Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương của người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ: "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và từ đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp: "Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm - nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: khi chúng ta cầm tay mọi người - Đất nước vẹn tròn, to lớn.
Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân. Khép lại bài thơ ở khổ cuối là: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ. Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản.
Khi ánh sáng cách mạng như Mặt trời chân lí chói qua tim, đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu vẹn tròn to lớn. Nhà thơ tự nhận mình là con của vạn nhà trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất, là em của vạn kiếp phôi pha gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương là anh của vạn đầu em nhỏ, cù bất cù bơ.
Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động cách mạng với những thiết tha cao đẹp cống hiến đời mình góp phần giải phóng đất nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm.
Tóm lại hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng. Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình - chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng. Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính. Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn. Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 17
Tố Hữu ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ của ông mang đậm chất trữ tình, chính trị. Cả đời thơ Tố Hữu dường như chỉ ca ngợi Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam. Đọc thơ ông ta thấy từng sự kiện lịch sử được hiện lên, trong đó một mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời cách mạng nhà thơ là khi ông chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” đã chân thành ghi lại cảm xúc vui tươi, sung sướng và lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mạng.
Bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng và con đường thi ca của Tố Hữu được rút ra ở tập thơ “Từ ấy”_tập thơ đầu tay của Tố Hữu là tiếng hát say mê, trong trẻo của người thanh niên cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: máu lửa, xiềng xích và giải phóng.“Từ ấy”nằm trong phần máu lửa.
Trước khi bắt gặp ánh sáng cộng sản Tố Hữu cũng như biết bao người thanh niên trí thức Việt Nam mịt mờ không lí tưởng, không xác định được hướng đi cho mình. Đúng như ông đã từng nói trong bài thơ “Nhớ đồng”:
“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời”
Nhưng kể từ khi được giác ngộ lí tưởng, tham gia vào Đảng 7/1938 “Từ ấy” nhấn mạnh mốc thời gian trong đời, “mốc son đáng nhớ trong tâm hồn người thanh niên tuổi mười tám đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống dám làm dám đấu tranh”. Mở ra cho tác phẩm là tâm trạng vui tươi, sung sướng của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”
“Nắng hạ”, “mặt trời” là các hiện tượng tự nhiên được nhà thơ nhắc đến với một niềm thành kính thiêng liêng. Nắng hạ và mặt trời là hai nguồn sáng ấm nóng, rực rỡ, bất diệt chiếu sáng cho mọi nguồn sống của vạn vật trên trái đất. Hình ảnh ấy được sử dụng theo lối ẩn dụ để chỉ ánh sáng cách mạng của Đảng. Tác giả sử dụng các động từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh, có ấn tượng với người tiếp nhận. Cũng như vậy lí tưởng cộng sản như ánh sáng chói lòa, bất ngờ đến xóa tan đi màn đêm tăm tối trong tư tưởng của những tháng ngày vô nghĩa mà nhà thơ đã trải qua. Tố Hữu nhận thức điều đó không chỉ bằng lí trí mà còn cảm nhận bằng trái tim của người chiến sĩ. Để giờ đây tác giả cảm thấy:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Ở đây tác giả có sử dụng phép so sánh ngầm không dừng từ “như” thay vào từ “là”. Tố Hữu lột tả niềm vui sướng tột cùng sự say mê mãnh liệt trong tâm hồn, hạnh phúc của bản thân khi đón nhận lí tưởng của Đảng. Nó như phép nhiệm màu làm xanh tươi lại khu vườn tâm hồn của tác giả. Tôi bỗng băn khoăn không biết liệu có phải trước đó khu vườn có khô héo, tàn úa quá chăng sao nhà thơ reo vui đến thế? Giờ đây nơi ấy tràn đầy sức sống có sắc màu, có hương thơm hoa lá, có tiếng reo vui của chim ca. Niềm vui như hòa vào tiếng chim để rồi nhà thơ thấy “Nhẹ nhàng như con chim cà lơi/ Say đồng hương nắng vui ca hát”. Tố Hữu đã từng viết: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm hồn tuổi trẻ của mình”. Tố Hữu đã cất lên tiếng nói, tiếng hát, sự cảm nhận chung cho các thanh niên trí thức bấy giờ. Đó là âm điệu ca hát cho lí tưởng cách mạng. Như vậy khổ thơ đầu chính là niềm vui, hạnh phúc và lòng biết ơn Đảng đã khai sáng cho tâm hồn mở ra cho ông và biết bao người thanh niên khác những nhận thức mới mẻ.
Sau những phút giây được chắp cánh bởi lí tưởng cộng sản nhà thơ chân thành bộc bạch suy nghĩ, nhận thức mới mẻ của bản thân về sự nghiệp cách mạng:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Khác với nhận thức của nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn. Người chiến sĩ cách mạng xa rời quần chúng nhân dân để rồi nhận lại bi kịch cho cái chết. Còn Tố Hữu cũng như Đảng cộng sản ta luôn hướng về nhân dân, gắn bó với quần chúng. Bác Hồ từng khuyên cán bộ đảng viên “Phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” chính vì vậy Tố Hữu “buộc lòng tôi với mọi người” từ “buộc” cho thấy ý thức tự nguyện, tinh thần gắn bó “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để cho tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời. Tố Hữu luôn luôn gần gũi, đồng cảm và sẻ chia khổ đau, bất hạnh với những “hồn khổ” của dân tộc. Hồn khổ ấy là “Em bé mồ côi”, là “Lão đầy tớ”, là “Chị vú em”… và biết bao nhiêu hoàn cảnh cơ cực trên đất Việt. Càng đồng cảm bao nhiêu thì nhà thơ càng căm hờn kẻ đã gây ra tội ác, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, cơ cực bấy nhiêu, càng thôi thúc nhà thơ gắn bó và chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã từng nói: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số” để “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Khối đời là hình ảnh ẩn dụ chỉ những người có chung hoàn cảnh, chung lí tưởng cách mạng cũng là để chỉ tinh thần đoàn kết của đồng bào Việt Nam, mỗi người cán bộ, chiến sĩ, mỗi người dân cùng chung tay làm nên sức mạnh của toàn dân tộc, là tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước. Khổ thơ đã cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường, cũng thể hiện niềm tin, niềm hạnh phúc vào khối đời dân tộc, vào con đường cách mạng nước nhà. Tố Hữu đã từng cất lên tiếng hát ngợi ca Bác và lí tưởng của Đảng:
“Từ vô vọng mênh mông đêm tối
Người đã đến chói chang nắng dọi
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu”
Từ những nhận thức mới mẻ sâu sắc ấy trong tư tưởng người thanh niên trẻ tuổi đã có sự chuyển biến về tình cảm, từ số phận của trí thức tiểu tư sản chuyển sang người trí thức cộng sản. Giờ đây tác giả tự đặt mình vào trong gia đình dân tộc Việt Nam bằng tình cảm ruột thịt chân thành:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Nhà thơ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”. Cách sử dụng điệp từ “là”, “của” kết hợp với các danh xưng “con”, “em”, “anh” và hàng loạt các từ chỉ số lượng nhiều: “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” nhà thơ bộc lộ tình cảm của mình gắn bó với nhân dân như anh chị em ruột thịt trong gia đình, đó là tình hữu ái giai cấp, yêu thương dành cho những con người đồng khổ. Ông đã từng viết:
“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”
Hay nhà thơ đã từng lột tả niềm vui sướng chân thành của mình khi được trở về với nhân dân trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Như vậy ta có thể thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của nhà thơ cách mạng với quần chúng nhân dân Việt Nam. Chính điều đó làm cho thơ ông thật gần gũi, thân thương.
Cả cuộc đời “Tố Hữu vừa làm cách mạng vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mạng, và làm cách mạng để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ”. Lí tưởng cách mạng có sức ảnh hưởng, có sự cảm hóa mãnh liệt đối với Tố Hữu cũng như bao nhà thơ lãng mạn khác. Như ta từng biết Tố Hữu xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản nên cái tôi cá nhân rất cao với lối sống ích kỉ nhưng ông đã vượt qua được rào cản giai cấp để hòa mình vào cái ta chung của cộng đồng. Mỗi một tác phẩm của ông là một sự kiện cách mạng được ghi dấu đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Mỗi một nhà thơ cách mạng cũng phải là một người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng và Tố Hữu ngay từ khi mới vào mặt trận ấy đã dành được vị trí vững chắc xứng đáng là “Một viên ngọc trong nền văn học Việt Nam”.
“Tố Hữu nhìn cách mạng bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca ngợi cách mạng”. “Từ ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tuyên ngôn về lí tưởng cách mạng, là tiếng hát trong trẻo của người thanh niên ở năm những năm mười tám đôi mươi sung sướng, hạnh phúc khi được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cùng với những nhận thức và sự vận động mới mẻ trong tình cảm của người chiến sĩ cộng sản.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 18
Tố Hữu làm thơ chính trị mà rất đỗi trữ tình, nhận định ấy của Xuân Diệu đã phần nào cho thấy nét đẹp nhuần thấm cũng như sự đặc sắc riêng trong thơ chính trị của Tố Hữu, nét riêng ấy phần nào đã được thể hiện trong bài thơ Từ ấy.
Khuynh hướng chính trong thơ Tố Hữu là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngay từ những dòng thơ mở đầu người đọc đã thấy tâm hồn thi sĩ trong người chiến sĩ Tố Hữu:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim..”
“Từ ấy” đánh dấu mốc thời gian Tố Hữu chính thức được đứng trong hàng ngũ của Đảng, với chàng trai tuổi hai mươi ấy đó dường như là khoảnh khắc lịch sử khi nó đánh dấu sự trưởng thành của ông khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được góp sức vào công cuộc cứu nước, được hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc. Giây phút hạnh phúc và niềm hân hoan vỡ òa ấy được ví von so sánh bằng một hình ảnh vô cùng giản dị mà ấm áp, tươi đẹp “tâm hồn tôi là một vườn hoa lá”, tâm hồn ấy bừng sáng khi được mặt trời chân lí chói qua tim, rộn ràng háo hức và hân hoan trước giây phút vinh quang này. Tâm hồn rất đậm hương và rộn tiếng chim, nhờ so sánh ấy, người đọc cũng như có cảm giác rằng niềm vui say trong ánh mắt, trong điệu hồn của nhân vật như làm tươi vui và náo nhiệt cả thiên nhiên, cả thiên nhiên dường như cũng đang nhảy múa không ngừng trước bước chuyển mình lịch sử ấy của người chiến sĩ cộng sản. Đó là bước chuyển đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự bế tắc mất phương hướng đến khi tìm được lí tưởng chiếu rọi, tìm đường con đường để theo đuổi và nhận thấy giấc mộng lớn của mình hòa chung vào niềm tin phấn khởi của cả dân tộc. Và chính sự giác ngộ ấy đã hình thành nên trong tâm hồn người chiến sĩ cộng sản nhưng tình cảm lớn, lí tưởng lớn tươi đẹp biết bao:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mảnh khối đời”
Muốn dùng sự yêu thương để cùng đùm bọc, cưu mang, che chở với biết bao hồn khổ. Lí tưởng ấy, phải chăng chính là sự kế thừa nhuần nhị trong tinh thần dân tộc Việt Nam “lá lành đùm lá rách”, là đạo lí truyền thống tươi đẹp, cao cả của dân tộc. vậy nên mới nói, thơ Tố Hữu thường hướng về những lẽ sống lớn tình cảm lớn của dân tộc. Điều ấy khơi gợi được sự đồng cảm, đồng thời đánh thức lại lòng nhân đạo trong tâm hồn mỗi con người, khi mà cuộc sống ngày càng phát triển sự rạn nứt nhỏ trong mối quan hệ giữa con người ngày càng rõ rệt. Đó là lẽ sống mà Tố Hữu theo đuổi, lẽ sống như một ngọn đèn soi đường cho người chiến sĩ cách mạng, để đến cuối khổ thơ, nhà thơ khẳng định chắc nịch:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Người con của tổ quốc giờ đây không còn cảm thấy cô đơn, mất phương hướng, mà đã gắn kết với cả một tập thể cộng đồng, đó không phải đơn thuần là sự hòa nhập, mà là sự lựa chọn được đồng cam cộng khổ, cùng nếm mật nằm gai, được lắng nghe tiếng nói của những con người nhỏ bé, vô danh. Điệp ngữ xuất hiện liên tiếp trong khổ thơ càng cho thấy tâm thế của người chiến sĩ cộng sản một lời khẳng định, hay là một lời tuyên bố về lẽ sống lí tưởng cao đẹp của mình.
Từ ấy là khúc ca tươi vui, như bản nhạc tâm hồn rộn ràng của người chiến sĩ say mê lí tưởng cộng sản cao đẹp, đồng thời khẳng định được những lẽ sống lớn, tình cảm lớn mà nhân vật theo đuổi.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 19
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ Mới bùng nổ mạnh mẽ với cái tôi cá nhân cởi bỏ mọi ràng buộc trở thành trung tâm của vũ trụ. Tâm trạng bao trùm thơ Mới là nỗi buồn của một bi kịch “ thiếu một niềm tin đầy đủ”. Thế nhưng, giữa lúc các nhà thơ Mới còn cô đơn, bế tắc trong nỗi buồn tuyệt vọng, trong tình yêu bất trắc và cõi siêu hình bồng lai thì, Tố Hữu với tác phẩm “ Từ ấy” đã cất lên tiếng hát ngợi ca lí tưởng cách mạng, thể hiện cái tôi gắn bó với xã hội, với nhân dân.
Thơ Tố Hữu là tiếng hát, tiếng reo vui, là mùa xuân và bình minh, là trời xanh và gió lộng… Thơ ông trìu mến tâm tình, ngọt ngào như giọng cô gái Huế, như là những nhịp điệu của núi non sông nước rất đỗi dịu dàng, thơ mộng. Thơ ông là những vần thơ trữ tình chính trị lấy cảm hứng từ những sự kiện lịch sử cách mạng thường được diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dị, giọng điệu sôi nổi, tràn đầy nhiệt huyết. Qua tác phẩm “ Từ ấy”, tác giả đã thể hiện hình ảnh người thanh niên với trái tim tuổi hai mươi căng tràn sức sống đã đến với cách mạng bằng niềm phấn khích của người vừa tìm thấy con đường lí tưởng cho đời mình.
Ngay nhan đề “ Từ ấy”, người đọc như thấy được trái tim hồn hậu chân thành của thi nhân đang reo vang những khúc ca yêu đời, say mê lí tưởng. “ Từ ấy” gợi lên thời điểm lịch sử có thật trong cuộc đời nhà thơ – tháng 7/1938 khi Tố Hữu được vinh dự đứng vào hành ngũ cách mạng, được đấu tranh cho lí tưởng dân tộc. Thời điểm ấy đã để lại dấu ấn quan trọng có bước ngoặt cho đường đời, đường thơ ông; gắn bó, chi phối đến toàn bộ tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình cảm của cái tôi thi sĩ.
“Từ ấy” không phải là lúc “ Anh nắm tay em sôi nổi vụng về” mà chính là thời điểm bén duyên với cách mạng để hình thành một tâm hồn thuộc về lẽ sống lớn, niềm vui lớn của con người. Cánh cửa “ Từ ấy” trở nên kì diệu, thiêng liêng bởi nó đã khai sinh cho chúng ta một thi sĩ lớn, đã mở ra những điều mới mẻ, lạ lẫm bất ngờ chưa từng có trước đó:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Khổ thơ đã thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc của Tố Hữu khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Lí tưởng ấy như một nguồn sáng chói lòa xua tan đi cái ảm đạm của những tháng ngày tăm tối; niềm hân hoan sung sướng trái ngược với những u buồn, chán chường:
“Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời.”
Hai hình ảnh ẩn dụ “ nắng hạ”, “ mặt trời chân lý” cùng hai động từ “ bừng”, “ chói” đã thể hiện sức sống dồi dào, mãnh liệt về lí tưởng và sức ảnh hưởng lớn lao, mạnh mẽ, bất ngờ của nguồn ánh sáng chân lý. Lý tưởng của Đảng lay động cả trái tim và khối óc nhà thơ, thấu vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn và lí tưởng tác giả, nó là một chân lý lớn lại gặp một tâm thế đón nhận mong mỏi nên phút giây giác ngộ bừng lên mạnh mẽ, phi thường. Tâm hồn thi nhân rộn ràng, náo nức như “ một vườn hoa lá” căng tràn sức sống:
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Hình ảnh so sánh “ hồn tôi” với “ vườn hoa lá” “ rất đậm hương và rộn tiếng chim” đã thể hiện niềm vui, phấn khởi của thi sĩ. Cách mạng đã soi đường cho người chiến sĩ trẻ bắt gặp ánh sáng của “ mặt trời chân lý”, tâm hồn người thanh niên bừng dậy sức sống như một vườn cây đầy sắc hương với vẻ tươi xanh của cây lá, với thanh âm rộn ràng của chim ca. Đối với vườn hoa lá thì có gì đáng quý hơn mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời thì còn gì đáng quý hơn một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?
Đặt trong hoàn cảnh đất nước những ngày “ ngẩng đầu lên, không thấy mặt trời/ Đất lai láng những là nước mắt” ta mới thấy rõ niềm hân hoan tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ. Lớn lên trong cảnh đất nước nô lệ “ bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước / Nên chọn một dòng hay để nước cuốn trôi” để rồi bao băn khoăn vẩn vơ bế tắc phút chốc xoá tan bởi “ Mặt trời chân lý chói qua tim”.
Sau những giây phút đầy hào hứng và vui mừng, tâm trạng nhân vật trữ tình tạm lắng xuống, suy tư hơn:
“Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.”
Khổ thơ hai đã thể hiện nhận thức mới về đời sống, về lẽ sống của nhà thơ Tố Hữu. Động từ “ buộc” là ý thức trách nhiệm, sự tự nguyện sâu sắc, quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt lên giới hạn cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. Nhà thơ “trang trải” mối tình rộng mở để cùng đồng cảm, sẻ chia, để trải rộng đến cuộc đời.
Tình yêu thương của nhà thơ không phải thứ tình cảm chung chung mà là tình hữu ái giai cấp, là sự quan tâm đến quần chúng nhân dân lao khổ với bao số phận đang quằn quại đau đớn, đang vật vã trong bế tắc. Trong nhận thức nhà thơ, mọi người hoà hợp, yêu thương cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối đoàn kết của những con người chung cảnh ngộ, chung hận, chung tương lai. Khi cái tôi chan hòa trong cái ta, khi cá nhân hoà mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ được nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã tự nguyện gắn bó cái tôi cá nhân với cái ta chung của mọi người bằng tình cảm yêu mến và sự giao cảm của những trái tim:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của mọi kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.”
Đối với nhà thơ, tình cảm giai cấp với quần chúng nhân dân lao khổ đã trở thành tình thân yêu ruột thịt. Trong một đại gia đình lớn, anh đã là “ con”, là “em”, là “anh”. Giác ngộ lí tưởng thực sự hoá thành tình cảm và hành động cụ thể. Ở đây không phải “sẽ” mà là “ đã”, tình cảm yêu thương gắn bó ruột thịt đã hiện hữu chan chứa trong từng lời thơ.
Nhà thơ đã thể hiện tấm lòng đồng cảm, thương xót khi nhắc đến những kiếp phôi pha và những em nhỏ giãi dầu. Họ là những con số rất đông đảo, được điệp đi nhấn lại trong các ý thơ: vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ. Họ là một tập thể giống nhau ở nỗi khổ không áo cơm, “cù bất cù bơ”. Họ là phần nhân dân đau đớn rên siết dưới ách xâm lăng nay đã liên hiệp lại để trở thành một sức mạnh chung, sức mạnh của những con người đau khổ muốn vùng dậy phá tan xiềng xích.
Trong tập thơ “Từ ấy” và trong cả đời thơ, đời cách mạng của mình, biết bao “kiếp phôi pha” đã đi vào thơ ông đầy xót xa, nhức nhối. Đó là cô gái giang hồ, là chú bé đi ở, là ông lão đầy tớ khốn khổ, là em bé bán bánh dạo trong “Một tiếng rao đêm”. Cho nên có thể nói, “ tất cả Tố Hữu, thi pháp, tuyên ngôn, những yếu tố làm ra anh có thể tìm thấy trong tế bào này, anh là nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại.”(Chế Lan Viên)
“Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng chứ không phải thơ tình yêu… nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân. Anh nói các vấn đề bằng trái tim của người say đắm.” Và niềm say đắm ấy bộc lộ qua một thể thơ trữ tình chính trị đặc sắc. Với ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, sánh chói, gợi tả, giàu tính lãng mạn, say người với khát vọng bay bổng, câu thơ mạnh, cảm xúc tràn đầy, giọng thơ đằm thắm trẻ trung, nhạc điệu thơ hăm hở, dồn dập, say sưa lôi cuốn,…Tố Hữu đã để lại trong lòng người những dư vị ngọt ngào, những ấn tượng khó quên về tiếng hát thơ “Từ ấy” lạc quan say đắm lí tưởng của người thanh niên giác ngộ.
Bài thơ “Từ ấy” là tuyên ngôn về nhận thức và sáng tác của Tố Hữu đồng thời cũng là tuyên ngôn cho toàn bộ tập “Từ ấy” nói riêng và toàn bộ sáng tác nói chung. Tuyên ngôn ấy trở thành bản nhạc của một tâm hồn lạc quan, yêu đời, cất lên nốt nhạc làm rung động hàng triệu trái tim thanh niên vì chất men nồng lí tưởng.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 20
Tố Hữu là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất trong phong trào thơ ca cách mạng. Ông có nhiều các tác phẩm có giá trị không chỉ về nghệ thuật văn học mà còn mang giá trị lịch sử bởi hầu hết các tác phẩm của Tố Hữu đều gắn liền với từng chặng đường của lịch sử dân tộc. Mở đầu cho thành công của Tố Hữu chính là tập thơ Từ ấy (1939) với tác phẩm cùng tên đặc biệt xuất sắc và ấn tượng. Bài thơ không chỉ bộc lộ niềm hân hoan vui sướng của tác giả khi được bước chân vào hàng ngũ của Đảng, mà còn thể hiện sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”
Trong khổ thơ đầu tiên niềm hân hoan và hạnh phúc của Tố Hữu khi được đứng chân vào hàng ngũ của Đảng được bộc lộ một cách rõ rệt, chân thành và sâu sắc. Mốc thời gian “từ ấy” là một từ phiếm chỉ đặc biệt, dù không thể hiện rõ thời gian cụ thể nhưng nó lại có ý nghĩa đánh dấu một cột mốc quan trọng trong cuộc đời của tác giả. Đó là ngày ông được chính thức bước chân vào hàng ngũ của Đảng, được chiến đấu dưới danh nghĩa của Đảng, của cách mạng, là ngày mà cuộc đời vốn tăm tối, vô định của Tố Hữu lần nữa được chiếu sáng, soi đường. Thời điểm bắt gặp ánh sáng cộng sản cuộc đời, trái tim người chiến sĩ sáng rực một màu nắng chói chang, cái màu nắng của mùa hạ, rực rỡ, cháy bỏng, tràn đầy nhiệt huyết “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”.
Ở câu thơ thứ hai, ý thơ dường như nối tiếp để giải thích cho câu thơ đầu, sở dĩ lòng tác giả bừng nắng hạ, màu nắng nhiệt huyết kia là bởi một “mặt trời chân lý”. Hình ảnh này là ẩn dụ đặc sắc cho Đảng cho lý tưởng cách mạng soi đường, với sự đúng đắn, đầy triển vọng trong bước đi của thời đại. Có thể nói rằng việc đứng vào hàng ngũ của Đảng đã mở ra cho Tố Hữu một con đường mới, một cánh cửa mới đầy hy vọng, xứng đáng để người trai trẻ dành trọn cả cuộc đời và tuổi xuân. Ánh sáng cách mạng cũng Tố Hữu thoát khỏi cảnh lạc lõng, đơn độc trên con đường yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc mà ông hằng hướng tới.
Cụm “chói qua tim” là một cụm từ đặc biệt mang đến cảm giác mạnh, lý tưởng cách mạng, ánh sáng soi đường xuyên thấu trái tim người chiến sĩ, chiếu rọi mọi góc tối của tâm hồn, xua đi màn đêm tăm tối.
Vườn tôi là một rừng hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Niềm vui sướng hạnh phúc, được bộc lộ bằng các hình ảnh thiên nhiên sống động, khi Tố Hữu dùng lối so sánh trừu tượng“hồn tôi” và “vườn hoa lá”, đó là sự hân hoan, niềm vui sướng toát ra từ tận sâu tâm hồn, chân thành và giản dị. Nếu như trước khi bước chân vào hàng ngũ của Đảng, được giác ngộ, tâm hồn Tố Hữu được ví như một khu vườn khô cằn, tăm tối, thì sau mốc thời gian “từ ấy”, khu vườn đã trở nên tràn đầy nhựa sống, đầy sinh khí đến từ nguồn sáng dồi dào của nắng hạ. Tâm hồn người chiến càng trở nên phong phú, rực rỡ và nhiều sắc màu. Không chỉ thế niềm vui sướng hân hoan ấy còn được thể hiện tiếp ở câu thơ nối dòng bên dưới “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”, có nghĩa rằng niềm hạnh phúc của Tố Hữu không chỉ dừng ở việc tràn đầy sức sống, sinh lực dồi dào, mà nó còn là sự rộn rã, reo vui đến từ sâu trong tâm hồn, tất cả đều ở mức cực đại, chín muồi. Niềm hạnh phúc không chỉ âm thầm, mà nó còn được bộc lộ bằng những xúc cảm của thính giác và vị giác, phong phú, độc đáo và lãng mạn kiểu Pháp.
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Đến khổ thơ thứ hai, để nối tiếp niềm hân hoan, hạnh phúc đến tột cùng, Tố Hữu đã thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn, càng khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa của Đảng trong quá trình soi sáng và giải phóng con người khỏi những tối tăm, bế tắc, mà đầu tiên là ở việc giải phóng tâm hồn, khởi nguồn cho những nhận thức mới mẻ, tươi sáng. Bản thân Tố Hữu khi được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng ở độ tuổi 18, ông đã nhanh chóng có những nhận thức mới mẻ về sứ mệnh và trách nhiệm của bản thân, đồng thời cũng đã định ra cho mình một con đường sáng lạn. Sự chuyển biến trong tâm hồn được thể hiện rõ khi tác giả dần chuyển từ cái tôi cá nhân, bế tắc, luôn quanh quẩn trong những nỗi hoang mang, bất định, những nỗi buồn lạc lõng khi phải “chọn một dòng hay để nước trôi xuôi” sang cái “tôi” rộng mở hơn, hào sảng hơn, hướng tới một cái ta chung nhất, gây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Lúc này đây, bản thân người chiến sĩ cách mạng đã không chỉ sống cuộc đời cho riêng mình, mà càng khao khát được sống được chiến đấu vì đất nước, vì dân tộc với lý tưởng cách mạng vĩ đại. Tố Hữu đã mở rộng tấm lòng, để biết yêu thương thêm những số phận bất hạnh, khổ đau “để tình trang trải khắp muôn nơi”, đồng thời cũng tự nguyện gắn bó, kết nối với những cuộc đời xung quanh khi “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”. Sự gắn kết tình thương mến thương, sự sẻ chia khi tác giả “Để hồn tôi với bao hồn khổ/Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” đã tạo thành khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc, bền bỉ, trở thành thứ vũ khí lợi hại, là thành trì kiên cố nhất chống lại sự chống phá ác liệt của kẻ thù. Có thể nói rằng việc trở thành Đảng viên khi còn trẻ tuổi đã mang đến cho cuộc đời Tố Hữu những bước ngoặt lớn, ông không chỉ tìm thấy cho mình con đường mới, mở ra một sự nghiệp cách mạng vẻ vang lắm gian lao, mà còn thay đổi triệt để nhận thức, từng góc một trong tâm hồn người chiến sĩ đều như được được chiếu rọi bằng ánh sáng của lý tưởng giải phóng dân tộc, làm nên một cuộc đời mới, nhiều ý nghĩa suốt mấy chục năm sau này và mãi mãi về sau.
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”
Bên cạnh sự thay đổi về nhận thức, hiểu được sứ mệnh và trách nhiệm của bản thân trong vai trò người chiến sĩ cách mạng, ở Tố Hữu ta còn nhận thấy được sự chuyển biến sâu sắc trong phương diện tình cảm. Người chiến sĩ trẻ tuổi đã không còn tự ôm lấy mình, thương cảm cho cuộc đời lạc lõng, tăm tối, mà thay vào đó tác giả tự xem mình trở thành một thành viên trong “đại gia đình” 54 dân tộc anh em, không phân biệt giàu nghèo, tầng lớp, địa vị, già trẻ lớn bé, trở thành con, anh, em của vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ. Lượng từ “vạn” càng nhấn mạnh tấm lòng bao la, rộng lớn mà người chiến sĩ trẻ dành cho đồng bào mình, ấy là khao khát được hòa nhập, được đồng cam cộng khổ, được thấu hiểu từng cuộc đời, được chăm lo đến từng số phận, để ai ai cũng được ấm no, hạnh phúc. Ấy là ước mơ cũng đồng thời là lý tưởng cách mạng vĩ đại của người chiến sĩ trẻ, vừa mới bắt đầu một chặng đường giải phóng dân tộc đầy gian lao. Câu thơ bộc lộ sự tự nhận thức một cách toàn diện, sự chuyển biến tích cực trong tâm hồn của Tố Hữu. Giờ đây ông không còn chiến đấu một mình, chiến đấu chỉ vì lý tưởng của bản thân, mà hơn hết là ông chiến đấu vì cả đất nước, vì cả một dân tộc đang lầm than, vì những con người thân thương ruột thịt.
Khổ thơ đã thể hiện được những phẩm chất đáng quý của một người chiến sĩ cách mạng, noi gương Hồ Chí Minh, sống giữa đất trời có tấm lòng rộng lớn, bao la, không quản ngại gian khó, sẵn sàng đứng lên hy sinh cuộc đời vì nhân dân, vì đất nước, ý thức sâu sắc được trách nhiệm, sứ mệnh của bản thân. Biết yêu thương, sẻ chia và thấu hiểu cho những mảnh đời gia khó khắp muôn nơi, bất bình, phẫn nộ trước những ngang trái, bất công, đau xót trước những cảnh lầm than, đớn đau, lấy đó làm động lực, nguồn nuôi dưỡng cho ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không ngừng nghỉ.
Từ ấy là một trong những tác phẩm hay và tiêu biểu nhất trong chặng đường sáng tác miệt mài của Tố Hữu. Không chỉ đơn thuần là ghi dấu lại một bước ngoặt quan trọng nhất trong cuộc đời cách mạng của tác giả mà ở tác phẩm này người ta thấy rất rõ được sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn của ông. Khi những dòng thơ đã thể hiện tinh tế sự chuyển đổi từ cái tôi cá nhân hồn nhiên, tươi sáng trong niềm vui hân hoan khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng sang cái ta chung khi nhận thức được sứ mệnh và trách nhiệm của Tố Hữu. Bên cạnh đó lối thơ tự nhiên, giàu hình ảnh, sức sáng tạo và sự lãng mạn khuynh hướng Pháp đã mang đến cho tác phẩm sức hấp dẫn riêng biệt, ghi danh vào một trong những tác phẩm thơ trữ tình chính nổi tiếng và đáng nhớ suốt cả chặng đường thơ của Tố Hữu, cũng như trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam bên cạnh Việt Bắc.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 21
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng. Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản, được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sông cách mạng và chính trị, thời sự đất nước. Từ ấy (1937 – 1946) là chặng đường đầu của thơ Tố Hữu. Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ cũng là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.
Tâm trạng nhà thơ có sự vận động qua ba khổ thơ: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng (khổ 1); những nhận thức mới về lẽ sông (khổ 2); sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.
Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
Hai câu thơ mở đầu được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Từ ấy là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niện Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tô Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phài là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí – một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian ánh sáng, hơi ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tương đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ bừng (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột.), chói (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng cùa lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mờ ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới cùa nhận thức, tư tưởng, tình cảm.
Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thế niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đấu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy sức sông với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cáy lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đôi với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì quý giá hơn khi có một lí tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu dời làm cho cuộc sông của con người có ý nghĩa hơn. Tố Hữu là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sông, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người. Với động từ buộc, câu một là một cách nói quá thế hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người (trăm nơi là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Với từ trang trải ở câu 2, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người cùa Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ớ câu 4, khối đời là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi cái tôi chan hòa trong cái ta, khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh cúa mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội.
Tóm lại, Tố Hữu đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chì bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản đế có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ là cùng với từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thản thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân minh là một thành viên cùa đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biếu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ không áo cơm cù bất, cù bơ (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhò cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,…).
Đến đây có thế thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ: đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mổĩ quan hệ giừa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.
Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc diệu. Từ ấy đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu và trong sự nghiệp thơ ca của óng. Bài thơ không ngừng hấp dẫn độc giả các thế hệ.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 22
Từ lâu, Tố Hữu đã sớm giác ngộ cách mạng và từ ấy sự nghiệp, thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng. "Từ ấy" là bài thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời thơ ca của ông. Bài thơ được sáng tác sau một cuộc hội ngộ kỳ lạ của tác giả, tạo nên chất men say của tình yêu đằm thắm với lý tưởng cách mạng và cuộc đời.
Trước hết ở khổ 1, bài thơ bộc lộ niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp ánh sáng lý tưởng của Đảng:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim"
Hai câu thơ được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể về một kỷ niệm không thể nào quên của cuộc đời mình. "Từ ấy" là mốc thời gian có nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế. Ông đã được giác ngộ lý tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng.
Được đứng vào hàng ngũ của những con người chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, để khi nhắm mắt xuôi tay không phải hổ thẹn bởi những năm tháng đã sống hoài sống phí. Đó là lý tưởng cao đẹp, lý tưởng của một thời đại. Lý tưởng của Đảng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân cách, suy nghĩ, tư duy, hướng phấn đấu cho mỗi cá nhân. Bằng những hình ảnh ẩn dụ "nắng hạ, mặt trời chân lý,..." Tố Hữu khẳng định lý tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ, Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay xuân dịu dàng, mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ.
"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim"
Hai câu thơ sau được viết bằng bút pháp trữ tình, lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lý tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy màu sắc, sức sống cùng với hương thơm của các loài hoa, vẻ tươi xanh cây làm rộn rã tiếng chim hót. Đối với vườn hoa lá ấy còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang "băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời", còn gì đáng quý hơn khi có lý tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?
Ở khổ thơ thứ hai, Tố Hữu bộc lộ những nhận thức mới mẻ về lẽ sống:
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi"
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân, chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lý tưởng, Tố hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi" cá nhân và "cái ta" chung của mọi người. Với động từ "buộc", câu một là một ẩn dụ thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của "cái tôi" cá nhân để sống chan hòa với mọi người.
Với từ "trang trải" ở câu hai, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời. Câu thơ đã tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể
"Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Hai câu thơ cho thấy tình yêu thương con người của tác giả không phải là thứ tình thương chung chung mà là tính hữu ái giai cấp. Câu thơ thứ 3 khẳng định trong mối quan hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ở câu 4, khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Họ gắn kết với tinh thần quốc tế vô sản, gắn kết toàn dân tộc thành một khối thống nhất. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của nhân dân
Khổ thơ thứ ba là sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của nhà thơ Tố Hữu đối với quê hương, đất nước:
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha"
Những điệp từ "là cùng với các từ "con, em, anh" và số từ ước lệ "vạn" nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết. Cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những kiếp phôi phai
"Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ"
Với hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính dân tộc, gợi cảm, giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng, sâu lắng, giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn. Thơ gần gũi với hình thức thơ mới, dùng nhiều hình ảnh tượng trưng... đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả bao thế hệ. Qua bài thơ, lớp trẻ càng thêm yêu thiên nhiên, đất nước, và sống có mục đích, lý tưởng trong sáng hơn.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 23
Tố Hữu là ngọn cờ đầu của phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam với những tác phẩm tự sự nhưng giàu cảm xúc. “Từ ấy” là bài thơ rút trong tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938, đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của tác giả khi được đứng trong hàng ngũ của Đảng cộng sản Việt Nam.
“Từ ấy” là từ chỉ thời gian đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa trọng đại trong cuộc đời người thanh niên cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh về tinh thần cũng như lý tưởng cách mạng. Giây phút ấy khiến tác giả nghẹn ngào, dường như không nói được nên chỉ thốt lên được hai từ “từ ấy”.
Từ đó là cảm xúc chủ đạo của bài thơ, sự hân hoan, rộn ràng, tràn đầy tin yêu của một người thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng. Sau khi đã đánh dấu “Từ ấy”, người thanh niên đó sẽ có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong cuộc đời cũng như trong hoạt động cách mạng.
Tác giả mở đầu bằng một câu thơ rung động chứa chan tình cảm:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Niềm vui của tác giả không nói nên lời, chỉ ngập ngừng “từ ấy”, và sau thời gian ấy “từ ấy” là bước ngoặt cũng như sự giác ngộ lý tưởng cao cả. Hàng loạt hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đều mang trong mình ý nghĩa tượng trưng cho những gì trong sáng, tươi đẹp, rạng ngời.
Từ “bừng” trong câu thơ đầu làm bừng sáng cả bài thơ, từ “bừng” có nghĩa là sự bừng tỉnh, sự thức tỉnh đã qua xử lý. Mặt trời mùa hè là mặt trời tươi đẹp rực rỡ, tươi vui và tràn đầy sức sống. Tác giả như bước ra, thoát ra khỏi nơi tối tăm, bế tắc, không còn lối thoát của cuộc đời để đến với ánh sáng của cách mạng và niềm tin. Giây phút vào hàng ngũ của đảng là “chân lý”, là điều đáng trân trọng suốt đời. Sự thay đổi rõ nét nhất diễn ra trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Sự thức tỉnh và giác ngộ cách mạng đã khiến tâm hồn người lính trẻ như một vườn hoa rộn ràng tiếng chim hót và muôn sắc hoa. Sự so sánh đó thật tài tình và ý nghĩa. Một tâm hồn thật sôi nổi, tràn đầy sức sống, tác giả đã cho cuộc đời mình tràn đầy niềm tự tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này, dường như cả bài thơ đã được tô vẽ bằng những gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.
Sự giác ngộ ở lý tưởng cách mạng ấy đã hình thành trong tâm hồn một tư tưởng lớn:
Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm vạn khối đời
Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ cái tôi cá nhân, vừa bộc lộ cái tôi bao la, rộng lớn nhất. Từ “buộc” ở câu thơ đầu gợi tình cảm gắn bó của người chiến sĩ cách mạng với mọi người. Chữ “buộc” là sợi dây, là con đường, là lẽ sống mà người chiến sĩ đã lựa chọn và theo đuổi đến cùng. Bằng tấm lòng kiên định và tình yêu thương bao la, người lính mong muốn mang lại sự bình yên, ấm no nhất cho nhân dân, để cùng nhân dân gánh chịu gian khổ, khó khăn.
Từ chân lý mong muốn được bao bọc, che chở, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối là một lời khẳng định về lập trường của tác giả:
Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Khổ thơ mang ý nghĩa liệt kê nhưng vẫn thể hiện được tình cảm, sự tin tưởng, gắn bó của người lính với toàn thể nhân dân. Từ “là” được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh mối quan hệ hiển nhiên giữa mình và người, gắn bó, sẻ chia, gánh vác gian khổ, đối mặt với thăng trầm và quyết không lùi bước. Tinh thần của tác giả thật đáng khâm phục và khâm phục. Tác giả tự nhận mình là một người vô danh nhưng có tinh thần đoàn kết và kiên trì.
Quả thực “Từ ấy” là một bài thơ đầy ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của một con người và của một chặng đường cách mạng gian khổ. Tiếng reo vui của tác giả như hòa vào niềm vui chung của nhân dân.
Phân tích bài thơ Từ ấy - mẫu 24
Tố Hữu (1920 – 2002) là nhà thơ lớn của dân tộc, ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thi sĩ và chiến sĩ của Tố Hữu luôn song hành. Trên hành trình vừa là chiến sĩ, vừa là nhà thơ, Tố Hữu đã có nhiều dấu mốc quan trọng, nhưng tiêu biểu nhất là sự kiện Soi sáng lý tưởng của Đảng năm 1937.
Lúc này Tố Hữu đã có bài thơ ghi lại ấn tượng của buổi đầu tiên là bài thơ “Từ ấy”. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên, là một trong những bài thơ đặc sắc của Tố Hữu. Đoạn thơ là tiếng reo mừng của chàng thanh niên Tố Hữu khi được giác ngộ lí tưởng của Đảng và nhận thức mới khi đi theo cách mạng. Tiếng hò reo của những ngày đầu đi theo cách mạng đã được Tố Hữu thể hiện một cách sinh động.“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
………….
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Nhà thơ Tố Hữu sinh năm 1920, tuổi thiếu niên sống trong cảnh trường nô lệ, nhưng may mắn cho Tố Hữu là ông giác ngộ năm 1937 và vào Đảng năm 1939. Đó là giai đoạn Tố Hữu chuyển mình từ một người thanh niên, sinh viên trẻ, sang một chiến sĩ cộng sản. Tố Hữu đã ghi lại tâm trạng của giai đoạn này, khi nhà thơ sung sướng được gặp lý tưởng của Đảng.
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
“Từ ấy” là lúc người thanh niên Tố Hữu đến với cách mạng và được giác ngộ lí tưởng của Đảng. Lúc ấy trong tâm hồn nhà thơ bừng lên một hơi ấm nồng nàn của một nhiệt tình cách mạng mà ông cảm thấy như một thứ nắng hè oi ả.
Tình cảm ấy có được là bởi lý tưởng của Đảng, ánh sáng cách mạng được ví như “mặt trời chân lý” soi “tỏ lòng”. Trái tim là nơi hội tụ của tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, ánh sáng chân lý chiếu qua trái tim là ngọn đèn sáng trong tình cảm, nhận thức của người thanh niên cách mạng.
Sau khi được ánh sáng của Đảng và lý tưởng cách mạng như mặt trời chân lý soi rọi, nhà thơ cảm thấy tâm hồn mình như được hồi sinh.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.
Như ta đã biết trong bài thơ “Một nhành xuân” 1980, Tố Hữu đã tự kể lại hành trình cuộc đời trước khi gặp lý tưởng Đảng rằng:
“Tôi đã khô như cây sậy ven đường
Đâu ước làm chim thơm và trái ngọt
Tôi đã chết im lặng như con chim không bao giờ được hót
Một tiếng ca lánh lót cho đời”.
Một linh hồn khô héo như thế này bỗng sống dậy. Nhà thơ cảm thấy trong tâm hồn mình xanh tươi như “một vườn hoa” hương thơm ngào ngạt và “tiếng chim véo von”. Điều đó cũng có nghĩa là tâm hồn được hồi sinh, nồng nàn và tràn đầy âm thanh, màu sắc.
Khó có hình ảnh nào so sánh sự hồi sinh của tâm hồn sống động hơn thế. Bốn câu thơ mở đầu bằng hình ảnh thơ mới mẻ, sáng tạo, nhà thơ vừa bộc lộ cảm xúc vui sướng khi lý tưởng của Đảng soi rọi vào tâm hồn mình, khi tâm hồn mình được hồi sinh dưới ánh sáng chân lý của Đảng.
Sau khi được tiếp thu lí tưởng của Đảng và chấn hưng tâm hồn, người cộng sản trẻ tuổi Tố Hữu đã có sự thay đổi về nhận thức, đó là phải gắn bó, yêu thương người lao động để thắt chặt tình đồng đội chiến đấu, tác giả đã viết:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”.
Sau nhận thức được sự thật, che đậy tình cảm, nhà thơ còn thể hiện một nhận thức mới, cụ thể hơn, đó là tình cảm với bao tâm hồn khốn khổ, với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích cho “ mảnh khối đời” cho tập thể chiến đấu mạnh mẽ… Như vậy, quan niệm gắn bó, chia sẻ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể, mục đích cụ thể.
Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ phản ánh kết quả của lý tưởng của Đảng đã được phản ánh trong tâm hồn nhà thơ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành nhân sinh quan mới, là quan niệm sống vì mọi người vì cách mạng. Sau khi miêu tả quá trình tiếp nhận ánh sáng của Đảng và thay đổi nhận thức về lẽ sống, nhà thơ đi đến chỗ nêu lên trách nhiệm của mình đối với cuộc đời đối với cách mạng. Trách nhiệm đó được nhà thơ thể hiện rất cụ thể:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.
Nhà thơ nêu lên trách nhiệm của mình nhưng không chung chung mà rất cụ thể, rất đúng với vai trò của thanh niên lúc bấy giờ. Đặc biệt ở khổ thơ này tác giả nhắc đến hình ảnh làm người em cần cù, đó cũng là trách nhiệm đối với những tâm hồn lao khổ mà tác giả đã nhắc đến trong đoạn thơ trên.
Bài thơ “Từ ấy” đã ghi lại một mốc son trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Tố Hữu. Đọc bài thơ này, người đọc cảm nhận được một Tố Hữu những ngày đầu đến với cách mạng đã nồng nhiệt đón nhận ánh sáng lý tưởng của Đảng và có sự chuyển biến khá toàn diện trong nhận thức về cuộc sống, thế giới quan.
Tuy viết về một thời điểm lịch sử, một thời khắc lịch sử của quá trình hoạt động cách mạng của mình nhưng Tố Hữu không diễn đạt một cách khô khan, khẩu hiệu suông mà trái lại thể hiện sinh động qua những hình ảnh hết sức sinh động. dáng người gợi cảm. Vì vậy, một bài thơ cách mạng vẫn xanh tươi trong lòng người đọc.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 11 hay, ngắn nhất khác:
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Lớp 11 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT
- Lớp 11 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 11 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 11 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 11 - CTST
- Giải sgk Hóa học 11 - CTST
- Giải sgk Sinh học 11 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 11 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 11 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 11 - CTST
- Lớp 11 - Cánh diều
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều