(20+ mẫu) Giới thiệu về một tác phẩm văn học Trao duyên (cực hay)
Tổng hợp trên 20 bài văn Giới thiệu về một tác phẩm văn học Trao duyên hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Giới thiệu về tác phẩm Trao duyên - mẫu 1
Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: chiếc hoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều.
Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. “Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng - Thúy Vân - Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu. Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Sau khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi. Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” - câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”.
Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ. Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy.
Càng đi sâu vào dòng độc thoại nội tâm, nàng Kiều càng chìm sâu vào bi kịch, nàng không còn tỉnh táo nữa mà tâm sự với Kim Trọng trong nỗi tuyệt vọng:
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Nàng quay trở về thực tại và ý thức sâu sắc về bi kịch số phận qua hàng loạt thành ngữ: “trâm gãy gương tan” chỉ sự chia lìa, tan vỡ, “phận bạc như vôi” nhấn mạnh sự bạc bẽo, bất hạnh, “nước chảy hoa trôi” thể hiện số phận long đong, chìm nổi. Trong trích đoạn “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Thúy Kiều không chỉ đối thoại với Thúy Vân khi trao duyên, đối thoại với chính mình khi hồi tưởng về quá khứ, ngẫm về số phận mà còn đối thoại với chàng Kim trong sự thức tỉnh về bi kịch hiện tại: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đó không phải là cái lạy của kẻ bề dưới đối với bề trên, càng không phải là cái vái lạy của kẻ chịu ơn, mà là cái lạy tạ lỗi nhưng cũng là lời vĩnh biệt tức tưởi nghẹn ngào, thể hiện Thúy Kiều hướng về Kim Trọng trong sự xót xa, cầu khẩn. Nàng tưởng tượng chàng Kim đang ở trước mắt và bất giác chìm sâu vào tuyệt vọng:
“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Hai câu cuối vỡ òa thảng thốt, Kiều đã không kìm nén được lòng mình mà thốt lên lời than vãn bi ai. Các từ cảm thán “ôi”, “hỡi’ đã nhấn mạnh nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự chua xót, bẽ bàng. Đặc biệt, từ “phụ” đã nhấn mạnh nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Dù là người mệnh bạc, bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu nhưng Kiều tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/ 3 và 2/2/2 như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện sự đau đớn. Đoạn thơ đã làm nổi bật hơn nữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cùng tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều.
Như vậy, qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được tình yêu sâu nặng cùng bi kịch của Thúy Kiều. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du.
Giới thiệu về tác phẩm Trao duyên - mẫu 2
Thiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một kiệt tác văn chương của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh éo le, dang dở tình duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc.
Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự lạ lẫm, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái lạ lẫm của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính éo le trong đoạn trích này. Sự nghịch lý chính nằm ở hành động trao duyên của Thúy Kiều, nàng muốn đem duyên tình của mình với Kim Trọng trao lại cho Thúy Vân, nhờ em nối tiếp nhân duyên trả nghĩa ân tình cho Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Những từ ngữ như “cậy, chịu, ngồi lên, lạy, thưa”, được tác giả sử dụng mang giá trị gợi tả và gợi cảm cực đắt. Thúy Kiều không đơn giản là nhờ vả mà là trông cậy vào Thúy Vân, chỉ có Vân mới giúp được Kiều trong hoàn cảnh này, nàng chấp nhận quỳ lạy và thưa gửi với chính em của mình, chỉ mong em có thể chấp nhận lời đề nghị khó khăn nhưng thiêng liêng này. Thúy Kiều trong hoàn cảnh éo le nhưng vẫn thể hiện được sự khéo léo, tài tình và thông minh, coi em như ân nhân của mình bằng tất cả sự kính trọng. Rồi nàng kể lại mối tình với chàng Kim, giãi bày lý do vì sao phải trao “mối tơ thừa” đó cho Thúy Vân, chính vì sóng gió ập đến bất ngờ với gia đình khiến nàng đành từ bỏ chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Nàng mong Vân sẽ vì tình nghĩa chị em máu mủ, thấu hiểu hoàn cảnh gia đình cũng như tình nghĩa giữa nàng và Kim Trọng mà chấp nhận mang vào mình mối tơ thừa duyên tình của Kiều. Lời nói của Kiều đã thấu đạt hết lý hết tình, Vân có muốn từ chối cũng khó mặc dù Kiều biết đó cũng là điều thiệt thòi và khó xử cho Vân. Có được sự chấp thuận của Vân, Kiều dù chết cũng cảm thấy yên lòng và mãn nguyện, “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”, cái chết cũng thể hiện sự cảm kích trước những thiệt thòi mà em phải chịu thay mình. Sau khi đã nói lời trao duyên, đến lúc Kiều trao lại những kỉ vật nàng và Kim Trọng đã từng có với nhau, đó là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung”
Đem những kỉ vật tình yêu thiêng liêng trao đi, Kiều như trao đi những thứ quan trọng nhất của cuộc đời mình, bây giờ duyên nàng có thể giữ nhưng kỉ vật đã thành của chung. Nỗi buồn xót xa phải trao đi cho thấy nàng và Kim Trọng đã yêu nhau sâu đậm, nồng nàn và chung thủy một lòng. Mất đi tình yêu, trao đi kỉ vật, cuộc sống của Kiều đã không còn gì đáng luyến tiếc hơn nữa, sống cũng như chết, nhưng nàng dù có chết vẫn giữ trọn lời thề son sắt:
“Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Kiều đã tuyệt vọng hết sức, chẳng còn hy vọng nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng không thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi đau khổ của nàng:
“Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”
Tất cả tình duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự tuyệt vọng, tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh phúc.
Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng kết hợp với những từ ngữ mang giá trị gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc mệnh của Kiều.
Giới thiệu về tác phẩm Trao duyên - mẫu 3
Nhắc đến Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” - kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên “Truyện Kiều” nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một trích đoạn đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đọc.
Trong đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim. Mở đầu là câu thơ mang nặng sự nhờ vả, trông cậy của Kiều dành cho Vân:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Từ “cậy” vừa thể hiện sự tin cậy lại vừa nhấn mạnh Vân là sự lựa chọn duy nhất, hợp lý nhất trong hoàn cảnh đó của Kiều, kết hợp với hành động “lạy”, “thưa” dường như Kiều đang trong trạng thái đau đớn, trong tình cảnh của kẻ mang ơn. Kiều tuy là chị nhưng lại quỳ lạy, thưa gửi với em của mình, có phần trái ngược với giáo lý phong kiến nhưng lại đúng với hoàn cảnh éo le, trước khi nhờ cậy Kiều đã kính cẩn, trạng trọng coi Vân như người ân nhân của mình. Điều đó cũng dự báo việc nàng nhờ cậy là việc rất quan trọng, khó khăn, chính vì vậy Kiều phải hết lòng giãi bày, tâm sự và thuyết phục Vân hiểu và chịu cho mình:
“Giữa đường đứt gánh tương tư…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Trong đoạn thơ, Kiều nhắc đến “mối tơ thừa” chính là mối tơ tình duyên của nàng với chàng Kim, đối với Vân mối tình duyên đó chẳng có ý nghĩa, chỉ là thừa thãi bởi vốn Thúy Vân và Kim Trọng đâu có tình cảm gì. Phải mang vào mình mối thừa ấy là một thiệt thòi của Vân, biết vậy nhưng Kiều cũng chỉ “mặc em”, bởi nàng cũng không có cách nào, không có lựa chọn nào khác. Nàng còn kể về mối tình với chàng Kim để mong em hiểu cho nỗi lòng, nghĩa tình sâu nặng giữa mình và Kim Trọng, nếu không trả khó có thể trọn vẹn, chỉ bởi sóng gió ập đến gia đình mà nay đành phải đứt gánh giữa đường. Thúy Kiều rất thông minh khi những lí lẽ nàng thuyết phục Thúy Vân vẹn tròn cả lý lẫn tình, nàng nhắc đến tình máu mủ ruột già mong em hãy bằng lòng chấp nhận, chính điều đó đã khiến cho Thúy Vân không thể từ chối lời thỉnh cầu của chị. Bước sang phân cảnh Kiều trao lại kỉ vật tình yêu với Kim Trọng cho Thúy Vân, ta thấy được một tình yêu đẹp, chân thành mà sâu sắc giữa hai người:
“Chiếc vành với bức tờ mây…
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Những kỉ vật như chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền giờ đây trở thành của chung ba người, tuy trao đi kỉ vật nhưng lòng Kiều vẫn giữ mãi ân tình, không quên được những kỉ niệm với người yêu, điều đó khiến nàng đau xót như mất đi những phần quan trọng của cuộc sống.
“Mai sau dù có bao giờ…
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Kiều nhiều lần nhắc đến cái chết trong những lời của mình, một phần muốn chắc chắn rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng khi đã bán mình chuộc cha và em cũng khó có thể biết được số phận trôi dạt về đâu, sống chết không rõ ra sao. Kiều dù chết đi vẫn mong người ở lại hãy nhớ đến mình, mong muốn có được sự đồng cảm của mọi người, và đến khi chết nàng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng.
“Bây giờ trâm gãy bình tan…
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Kiều quay về thực tại, chẳng còn kỉ niệm tình yêu ngọt ngào nữa, giờ đây là hiện thực dở dang, lỡ làng, tan vỡ, bây giờ tình duyên của nàng đã mất, cuộc đời cũng sắp phải giao cho người khác, số phận nàng “bạc như vôi”. Nàng gọi tên chàng Kim trong nỗi thổn thức, xót xa và như một lời từ biệt cuối cùng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”, nàng đã phụ tấm lòng chàng Kim, nàng tuyệt vọng dưới sự đày đọa của hoàn cảnh và số phận.
Thông qua việc phân tích bài trao duyên, ta không chỉ thấu hiểu được bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều mà còn thấy được ở đó hiện lên nhân cách cao đẹp của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Qua nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du cũng bày tỏ sự cảm thông, xót xa trước những bất hạnh và hiện thực bất công của cuộc đời Kiều.
Giới thiệu về tác phẩm Trao duyên - mẫu 4
Truyện Kiều là một trong những áng thơ tuyệt tác của văn học Việt Nam. Nguyễn Du qua Truyện Kiều đã dựng lên bức tranh về xã hội phong kiến đương thời với những bất công, đè nén con người và cùng với đó là bi kịch số phận của người phụ nữ. Thúy Kiều là nhân vật chính của tác phẩm, là một người con gái tài sắc vẹn toàn và đang có tình yêu thật đẹp với chàng Kim Trọng hào hoa phong nhã. Thế như "sự đâu sóng gió bất ngờ" buộc Kiều phải bán mình lấy tiền cứu cha và em trai, và chính thời điểm đó, Kiều đã nhắm mắt đau đớn nhờ em gái mình trả nghĩa cho chàng Kim. Đoạn trích Trao duyên là một trong những trích đoạn mà khiến cho người đọc phải đau đớn, xót xa nhất cho số phận của nàng Kiều xinh đẹp.
Truyện Kiều được dựa trên một tiểu thuyết của Trung Quốc có tên Kim Vân Kiều truyện, nhưng đã được Nguyễn Du biến đổi, sáng tạo nên một câu chuyện sống động, khác biệt. Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát - đây là thể thơ truyền thống của dân tộc ta, bao gồm 3254 câu thơ. Nội dung của Truyện Kiều là sự phản ánh sâu sắc xã hội đương thời với sự cai trị tàn bạo của giai cấp thống trị và những bi kịch của số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Cũng từ cái nhìn đó, Nguyễn Du bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc và bày tỏ ước mơ của mình về một xã hội công bằng, công lý cho người dân.
Đoạn trích Trao duyên được trích trong tác phẩm Truyện Kiều từ câu 723 đến câu 756, thuộc phần hai Gia biến và lưu lạc. Sau khi cha và em bị bắt đi một cách oan uổng, Kiều buộc phải bán mình để lấy tiền cứu cha và em. Đêm cuối trước khi rời đi, Kiều đã đau đớn cậy nhờ Thúy Vân - em gái của mình trả nghĩa cho tình lang của mình - Kim Trọng khi ấy đang ở Liêu Dương chịu tang chú.
Đoạn trích bao gồm hai mươi tư câu thơ, được chia làm ba đoạn: Đoạn một bao gồm mười hai câu đầu: Đây là những lời lẽ mà Kiều lấy ra để thuyết phục em gái nhận lời trao duyên của mình, đoạn hai bao gồm mười bốn câu thơ tiếp là đoạn mà Kiều trao lại cho em những kỷ vật tình yêu của mình cùng lời dặn dò, đoạn ba gồm tám câu cuối: đó là nỗi lòng đau xót của Kiều khi nhớ về Kim Trọng. Đoạn trích ngắn ngủi, thế nhưng lại làm toát lên được nỗi đau xót đến tận cùng của Kiều trước bi kịch tình yêu của mình và đó cũng là tiếng kêu đầy đau đớn của tác giả trước những số kiếp con người trong xã hội phong kiến đương thời. Đoạn trích được xây dựng lên bởi những đoạn đối thoại, độc thoại cực kỳ xuất sắc. Ngôn ngữ ở đây cũng vừa hàm súc, lại vừa trang trọng, đúng với tư chất của một người con gái tài sắc như Kiều. Đoạn trích này cũng là một trong những đoạn trích làm nổi bật lên cái tài xây dựng nhân vật qua những đoạn độc thoại nội tâm cực kì xuất sắc của Nguyễn Du.
Đoạn trích được mở đầu bằng lời nhờ cậy của Kiều với Thúy Vân:
"Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"
Nàng dùng chữ "cậy" để mở lời, đây là một sự nhờ vả, mang âm điệu nặng nề, chứa đựng sự đau khổ, quằn quại trong nội tâm của Kiều. Không chỉ mở lời bằng từ "cậy", Kiều còn dùng hai từ "lạy, thưa" để xưng hô với em. Đây là hai từ ngữ thể hiện sự cung kính với các bậc bề trên, với những người có ơn với mình, chứ không phải với em gái. Ấy vậy mà Kiều đã dùng nó, chứng tỏ việc nàng cậy nhờ em mình là vô cùng quan trọng với nàng, vậy nên nàng mới cung kính đến nhường ấy!
Hai câu thơ đầu, ngắn ngủi thế nhưng lại là lời mở đầu chứa đựng bao sự khó khăn, khó mở lời của Kiều, thế nên, nàng đã phải dùng những lời lẽ cung kính với Thúy Vân để nhờ Vân giúp đỡ mình một việc rất hệ trọng.
Sau khi nhận được sự đồng tình của em, Kiều mới khẽ khàng trao duyên cho em với những lý lẽ thật đau đớn nhưng cũng đầy thuyết phục, chứa đựng sự thông minh của nàng. Đầu tiên, nàng nói đến mối tình sâu sắc của mình với Kim Trọng bằng lời lẽ đau xót:
"Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày nguyện ước, khi đêm chén thề"
Kiều đã dùng bốn chữ "đứt gánh tương tư" để chỉ ra sự ra đi của mình trong đoạn duyên tình với Kim Trọng. "Đứt gánh" thể hiện sự đột ngột, bất ngờ bỏ lỡ, vì hoàn cảnh mà nàng buộc lòng phải rời xa mối tình của mình. Thêm vào đó, hai từ "mặc em" như một lời phó thác cho Thúy Vân mối duyên của mình, nói là phó thác thế nhưng thực ra là ép Vân phải nhận lời. Nàng đã có một tình yêu thật đẹp với Kim Trọng, với những vật đính ước, với những đêm cùng nhau nguyện thề. Tình yêu ấy đẹp đẽ vô cùng, thế nhưng "sóng gió bất kì " đã buộc nàng phải chọn lựa gia đình. Thúy Kiều đã dựa vào "tình máu mủ" để thuyết phục Vân, và nàng đã khẳng định với Vân rằng sau này, dù nàng có ra sao thì nàng cũng sẽ mang ơn với Vân suốt đời.
Mười hai câu thơ, nhưng lại là sự diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Kiều. Mỗi lời nói ra đều vô cùng khó khăn, đều vô cùng đau xót, thế nhưng Kiều đã dùng sự thông minh của mình để diễn giải nó thật chân thành, thật thấu tình đạt lý để Thúy Vân không thể từ chối. Đây cũng là điều thể hiện đức hy sinh cao cả của Kiều, chứng minh tấm lòng hiếu thảo và sự trọng nghĩa tình của nàng.
Tiếp đến là đoạn thơ khi Kiều trao cho Vân tất cả kỷ vật tình yêu của mình cùng lời dặn dò em gái. Nàng trao hết cho em những kỷ vật tình yêu gắn liền với mối tình sâu đậm của nàng. Tất cả chỉ là những vật đơn giản, nhỏ bé, đối với người khác không hề có giá trị, nhưng với nàng, đó là tất cả minh chứng cho tình yêu của nàng :
"Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"
Những kỷ vật ấy thất đơn sơ, chỉ là "chiếc thoa, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền", nhưng đó là tất cả kỷ niệm về đoạn duyên ngắn ngủi của nàng với Kim Trọng. Nàng đành lòng phải trao đi cho Vân nhưng chỉ là trao kỷ vật, còn một chút duyên tình, nàng xin giữ lại cho bản thân mình
"Duyên này thì giữ, vật này của chung"
Nàng nói "của chung" chứ không nói của Vân, đây là sự tiếc nuối của nàng, là sự dằn vặt trong tâm can, sự không nỡ rời xa của nàng. Mối tình đầu luôn là mối tình sâu đậm nhất, mà tình yêu ấy của nàng với Kim Trọng lại còn đang rất sâu sắc, ấy vậy mà nàng buộc lòng phải rời bỏ, thử hỏi sao không đau đớn cho được chứ?
Sáu câu thơ là sáu câu với những dằn vặt sâu sắc trong nội tâm Kiều, một mặt nàng muốn em giúp mình trả nghĩa cho Kim Trọng, mặt khác nàng không hề muốn rời xa mối tình đầu sâu đậm của mình.
Sau khi trao lại cho Vân hết thảy những kỷ vật, Kiều đã dặn dò Vân với những lời lẽ thật buồn rầu, thật nặng nề. Nàng dường như đã dự cảm cho số kiếp lênh đênh của mình, dự cảm về cái chết, bởi thế nàng sử dụng một loạt những từ ngữ gợi nên cái chết như "hồn, hiu hiu gió thổi, nát thân bồ liễu, dạ đài, ... ". Nàng đã có một dự cảm chẳng lành cho số phận của mình, nàng tưởng mình đã chết, đã ra đi nhưng lại chẳng thể siêu thoát bởi nàng còn mang nặng tình yêu với Kim Trọng. Mỗi lời thơ là tâm trạng đầy đau đớn của Kiều, sự tuyệt vọng, xót xa khi phải rời xa tình yêu của mình. Đồng thời đó cũng là minh chứng cho tình yêu sâu nặng, thủy chung của mình với chàng Kim.
Ra đi, Kiều cũng không quên dặn dò Thúy Vân phải cố gắng thay mình trả nghĩa lại cho Kim Trọng, đồng thời khi nàng chết đi, hãy thay nàng tẩy oan, để nàng có thể yên bình nơi "dạ dài" tăm tối. Đây là sự dằn vặt khôn nguôi của Kiều, tình yêu của Kiều với Kim Trọng là vô cùng sâu sắc, nàng ra đi là vì bất đắc dĩ chứ không phải là bội bạc, muốn quên lời hẹn với chàng! Có thể nói, Kiều đã có những dự cảm cực kì chính xác ngay từ đầu về số phận của mình sau này! Đây phải chăng là sự nhạy cảm của một người con gái thông minh, tài sắc?
Đến cuối cùng, sau khi đã trao hết cho Vân, Kiều mới lặng lòng ngồi nhìn lại thực tại đầy xót xa của mình. Ở đây, đối thoại đã chuyển thành độc thoại, Kiều tự ngồi độc thoại với nội tâm của mình. Nàng suy nghĩ về những bi kịch của bản thân;
"Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
Mỗi từ mỗi chữ đều gợi lên sự tan vỡ, ly tán, đau thương, và nàng càng đau khổ hơn khi nghĩ về Kim Trọng. Mặc dù sự thật là do chữ hiếu, Kiều mới rời xa Kim Trọng, nhưng nàng vẫn tự nhận mình đã phụ bạc chàng, khiến chàng phải đau khổ. Cái "lạy" ở đây của nàng, không giồng cái lạy với Thúy Vân, đây là cái lạy nàng dùng để tạ tội với tình lang của mình.
Để tới cuối cùng, khi mọi cảm xúc dâng trào đến tột đỉnh, nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự tức tưởi, nghẹn ngào, đau xót:
"Ôi Kim lang, hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"
Mỗi câu thơ trong đoạn thơ cuối là một nỗi lòng của Kiều, nó chứa chan sự đau đớn vô cùng khi nàng phải rời xa tình yêu vì chữ hiếu. Đến cuối cùng, mọi nỗi đau của nàng đều hướng về Kim Trọng, chứ không hề có một chút suy nghĩ về nỗi đau của bản thân, thế mới hiểu đức hy sinh của Kiều lớn lao đến nhường nào và tình cảm nàng với Kim Trọng sâu đậm ra sao!
Đoạn trích chỉ bao gồm hai mươi tư câu nhưng đã giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Thúy Kiều vào đêm cuối cùng trước khi rời khỏi nhà, bước chân vào quãng đường lưu lạc. Người ta đã thấy rõ được sự giằng xé sâu bên trong nội tâm của Kiều cùng tình yêu thủy chung và đức hy sinh cao cả của mình.
Về phần nghệ thuật, Nguyễn Du đã thực sự xuất sắc khi diễn tả được tâm trạng của Kiều với những đoạn đối thoại, độc thoại cực kì sâu sắc. Thể thơ lục bát được khai thác triệt để cùng với ngôn từ giàu biểu cảm, đầy sự chân thành.
Đoạn trích Trao duyên càng khiến chúng ta khâm phục tài năng của Nguyễn Du hơn nữa. Tài năng của ông đã biến đoạn trích này trở thành mẫu mực cho một tác phẩm sử dụng cách khắc họa nhân vật bằng độc thoại nội tâm. Đồng thời cũng làm sáng lên sự hiếu thảo, thủy chung trong tình yêu của Kiều - một người con gái tài sắc vẹn toàn.
Xem thêm các bài Soạn văn 11 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 11 hay khác:
- Soạn văn 11 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 11 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Soạn Chuyên đề Văn 11 Kết nối tri thức
- Giải lớp 11 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 11 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 11 Cánh diều (các môn học)
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT