SBT Ngữ văn 10 Bài tập viết trang 33,34,39 - Cánh diều

Với giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài tập viết trang 33,34,39 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10.

Câu 1 trang 33 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Điền các từ cho trước vào chỗ trống:

nội dung                đánh giá                 lời bình                  cái hay

 phân tích               đặc sắc                   hình thức               thuyết phục

“Viết bài nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học là viết bài văn ............ người khác về cái hay, cái.................... (hoặc chưa hay, chưa đặc sắc) của

……….. và ……….. nghệ thuật (ngôn từ, kết cấu, nhân vật, chi tiết, hình ảnh, vần, nhịp,...) của tác phẩm. Trong khi phân tích, đánh giá, cần chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Nêu ...................... là thao tác xem xét, chỉ ra ............................. Cái đặc sắc ở từng phương diện cụ thể về nội dung và hình thức thì .......................... là đưa ra những nhận xét, ........................ về giá trị của các phương diện ấy”.

Trả lời:

“Viết bài nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm văn học là viết bài văn thuyết phục người khác về cái hay, cái đặc sắc (hoặc chưa hay, chưa đặc sắc) của nội dunghình thức nghệ thuật (ngôn từ, kết cấu, nhân vật, chi tiết, hình ảnh, vần, nhịp,...) của tác phẩm. Trong khi phân tích, đánh giá, cần chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Nếu phân tích là thao tác xem xét, chỉ ra cái hay, cái đặc sắc ở từng phương diện cụ thể về nội dung và hình thức thì đánh giá là đưa ra những nhận xét, lời bình về giá trị của các phương diện ấy.”.

Câu 2 trang 33 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Hãy xác định các câu văn thể hiện sự phân tích và đánh giá của người viết trong đoạn sau:

Đến hai câu luận, không gian và thời gian bông mở rộng ra:

“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,

Một tiếng trên không ngỗng nước nào”.

Câu trên là một ảo giác về thời gian. Câu dưới là một thảng thốt trước không gian. Với hai câu này, bức tranh thu bỗng giàu những thi vị hư huyền. Chữ “năm ngoái” (gắn với hoa) vốn được Nguyễn Du sáng tạo từ chữ “y cựu” (y như cñ) trong thơ Thôi Hộ. Giờ đây, qua thời gian, nó lại trôi về Yên Đổ, đậu lên cái chùm hoa nơi lưng giậu của Nguyễn Khuyến, phổ vào hình ảnh thơ một chút hoài niệm bâng khuâng. Trước giậu là xác thực về không gian. Còn “hoa năm ngoái” đã có vẻ không thật xác thực về thời gian. Có một cái gì như một thoáng ngưng đọng trên chùm hoa kia. “Hoa” vẫn lặng lẽ ở đó từ “năm ngoái”, hay “hoa” mới hiện về từ trong kỉ niệm? Khó mà phân định. Chỉ biết rằng trong lòng phải mang nặng nỗi u hoài không dễ tỏ bày, thi nhân mới có cái cảm nhận huyền hồ ấy.”. (Chu Văn Sơn)

Trả lời:

Một mặt, tác giả đã chia tách (phân tích) các câu, các từ ngữ, hình ảnh để đi sâu cắt nghĩa. Ví dụ: “Câu trên là một ảo giác về thời gian. Câu dưới là một thảng thốt trước không gian”; “Trước giậu là xác thực về không gian. Còn hoa năm ngoái đã có vẻ không thật xác thực về thời gian”. Mặt khác, người viết đã đưa ra những lời bình thể hiện những cảm nhận, đánh giá của mình. Ví dụ: “Có một cái gì như một thoáng ngưng đọng trên chùm hoa kia. Hoa vẫn lặng lẽ ở đó từ năm ngoái, hay hoa mới hiện về từ trong kỉ niệm? Khó mà phân định. Chỉ biết rằng trong lòng phải mang nặng nỗi u hoài không dễ tỏ bày, thi nhân mới có cái cảm nhận huyền hồ ấy”, Tuy nhiên, về cơ bản, đoạn văn có sự đan cài giữa phân tích và bình luận (đánh giá). Ví dụ: “Chữ năm ngoái (gắn với hoa) vốn được Nguyễn Du sáng tạo từ chữ y cựu (y như cũ) trong thơ Thôi Hộ. Giờ đây, qua thời gian, nó lại trôi về Yên Đổ, đậu lên cái chùm hoa nơi lưng giậu của Nguyễn Khuyến, phổ vào hình ảnh thơ một chút hoài niệm bâng khuâng”.

Câu 3 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

Kiêu binh nổi loạn

Hoàng Lê nhất thống chí có nghĩa là ghi chép về sự thống nhất thiên hạ của nhà Lê, song thực chất tác phẩm lại phản ánh hai sự kiện lớn nhất trong lịch sử nước ta cuối thế kỉ XVIII. Đó là sự sụp đổ không gì cứu vãn nổi của nhà nước phong kiến Lê - Trịnh và sức mạnh phi thường, công lao to lớn với đất nước của phong trào Tây Sơn. Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn trên đây thuộc về sự kiện thứ nhất. Đúng như đầu đề của đoạn trích, kiêu binh nổi loạn về cuộc nổi dậy của đám thân quân chống lại tập đoàn chúa Trịnh Cán, mà đối tượng chính là Tông, con trưởng Trịnh Sâm. Danh nghĩa cuộc nổi dậy là chính đáng nhằm khôi phục lại kỉ cương, báo vệ nhà chúa nhưng trái lại nó lại là mở đầu cho sự sụp đồ cơ đồ họ Trịnh và kéo theo cả sự sụp đồ của nhà Lê.

Thông thường, các cuộc chính biến bao giờ cũng được chuẩn bị rất chu đáo về các mặt: danh nghĩa, mục đích, lực lượng, kế hoạch, thời gian và nhân sự, mà quan trọng nhất là bộ phận đầu não. Cuộc nổi dậy của kiêu binh lần này không thế, nó được khởi xướng một cách gần như ngẫu nhiên, từ một câu hỏi không có chủ đích của thế tử cũ: “Bên ngoài lòng người ra sao?”. Có thể lời nói đó là một câu hỏi không có chủ đích bởi vì Trịnh Tông lúc đó đang ở trong tình huống bị giam giữ không liên lạc được với bên ngoài, không có phe cánh, chỉ có một ít gia thần, nỗi lo của Tông bấy giờ chỉ là làm sao được bảo toàn tính mạng. Tuy nhiên, câu hỏi tình cờ đó đã nhanh chóng dẫn dắt đến một dự định sau khi Tông được biết một thông tin thuận lợi do Dự Vũ, người đầu bếp cung cấp:

- “Nhà chúa bỏ con cả lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất bình lắm. Hôm nọ trong khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho các quân sĩ, nhưng trong quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau, Quận Huy phải ra lệnh nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong lòng vẫn còn hậm hực”.

Từ câu chuyện vu vơ với anh đầu bếp, Tông đã nảy ra một dự định và “đem chuyện ấy bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ”, y cũng khích lệ:

- “Lòng người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một

lòng tôn phù, thì việc lớn ắt thành”.

Có thể nói ý kiến của Gia Thọ đã có tác động lớn đến quyết định của Trịnh Tông. Từ “mừng thầm” đến “mừng lắm”, Tông đã bắt tay cho hành động: “mời bọn biện lại trong đám thân quân tới đánh chén” và lấy nghĩa khí khích động họ. Quả thật lời kêu gọi của Trịnh Tông rất có tình có lí: Thế tử (Tông) không có tội, mụ họ Đặng mê hoặc tiên chúa. Hoàng Đình Bảo vốn có chí phản nghịch, vương tử Cán bé dại, yếu ốm; sự câu kết của Đặng Thị Huệ và Quận Huy đã đưa cơ đồ nhà chúa đến chỗ “nguy biến” nay mai. Ba quân đối với nhà chúa vừa có tình quê hương (người ở đất “thang mộc”), vốn sẵn lòng trung nghĩa, là nanh vuốt của nhà nước, lại chịu ơn nhà chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, trong tình hình ấy “giúp đỡ nhà chúa” là trách nhiệm, là nghĩa vua tôi, huống nữa lại còn “sách son, khoán sắt lưu truyền muôn đời”.

Sau lời “phát động” của Trịnh Tông, cuộc biến thực sự bắt đầu. Vương tử Tông đã nhận được một lời đáp mà những người chủ xướng các việc lớn phải thèm muốn:

- “Chúng tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ý vương tử ra sao? Sợ đến lúc ấy nhỡ có điều gì kinh động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương tử đã ngỏ ý cho biết như thế, thì việc này chắc không khó gì”.

Với sự dắt dẫn các tình tiết như trên, các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã cho người đọc thấy cuộc nổi loạn của kiêu binh vào thời gian ấy quả là vừa mang tính ngẫu nhiên lại cũng vừa mang tính tất yếu.

Có thể nói Kiêu binh nổi loạn là một cuộc chính biến kì lạ, có lẽ đúng với nghĩa của chữ “loạn”. Nó diễn biến, phát triển rất nhanh chóng. Kể từ cuộc nói chuyện giữa Trịnh Tông và Dự Vũ cho đến khi khởi sự chính thức chỉ có năm cuộc họp bàn cả lớn lẫn nhỏ (Trịnh Tông nói chuyện với Dự Võ; Trịnh Tông bàn với Gia Thọ; bữa cơm thiết biện lại ở nhà Trịnh Tông; cuộc uống máu ăn thề của chúa Khán Sơn và bọn Bằng Vũ bàn quyết định ngày khởi sự). Ngoài ra cũng còn vài cuộc thương lượng giữa đại diện của thân quân với Quận Viêm, Nguyễn Kiêm và mấy người vận động hộ họ với thánh mẫu, Quận Hoàn. Nói chung đó là những cuộc họp đầy tính chất tự phát và không hề hoạch định được một kế hoạch hành động nghiêm chỉnh. Trong cuộc họp mặt ào ào sôi động như thế, ai đề xướng được điều gì họ nghe theo ngay: Bằng Vũ bảo dùng trống làm hiệu lệnh họ cũng đồng ý và giao luôn việc ấy cho Vũ; Bất Trực bảo nên xin ý chỉ thánh mẫu họ cũng chấp thuận cùng đi với Trực; đến nhà quận Viêm, Viêm đẩy sang Nguyễn Kiêm thì họ sang nhà Nguyễn Kiêm... Một công việc tày đình như thế nhưng hầu như họ không có người đứng đầu, cũng không có kỉ luật nghiêm mật, đến nỗi trong cuộc họp mặt ăn thề, người nhà của quốc cữu chẳng hiểu vì sao cũng biết mà đến được; thậm chí ngày khởi sự còn chưa định mà dân ngoài phố đã xôn xao khiến cho kẻ “hiếu sự” soạn hộ ngay một bài kịch Ba quân phò chính ngầm đem dán khắp nơi! Không thấy bộ phận đầu não của cuộc chính biến có những hoạt động gì để phòng bị và đối phó với những tình huống xấu xảy ra ngoài một quyết định táo bạo nhưng cũng có phần phó mặc cho may rủi: “Thấy chuyện đã vỡ lở như vậy, bọn Bằng Vũ cho là thế không thể đừng được, bèn quyết định ngay ngày hôm sau khởi sự, không cần phải tâu với thánh mẫu nữa”.

Và đúng như lệnh, sáng hôm sau, sau lễ cúng cơm, hiệu binh nổi trống khởi sự, cuộc bạo động diễn ra ngay trong sân phủ chúa trước mặt các quan đậm màu sắc trung cổ, và vô chính phủ. Khi đánh nhau thì họ “đâm chém túi bụi”, “lấy gạch đá ném tới tấp”; riêng Quận Huy thì họ lôi từ trên mình voi xuống “đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ, ...”; em Quận Huy cũng bị đập chết bằng gạch đá rồi vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân; nhà cửa dinh thự Quận Huy và tất cả các quan văn võ thuộc phe cánh Đặng Thị Huệ hoặc thường ngày bị họ ghét cũng bị đập phá tan tành, bị lùng bắt giết chết,... Họ làm náo động kinh thành đến mấy ngày mà Trịnh Tông hạ chỉ ngăn cấm cũng không được. Qua ngòi bút của tác giả, ta có thể hình dung được các thế lực chính trị đương thời: Quận Huy đã bị cô lập, đến mức không một ai cùng chiến đấu với ông, trừ người em ruột Lý Vũ hầu; các quan trong triều giữ thái độ trung lập cốt bảo mạng, còn thân quân thì rất mạnh. Họ tự phát, không người chỉ huy, nhưng cậy số đông họ cứ sấn tới và sự kích động đã làm cho họ can đảm, hăng hái, đó cũng là một nguyên nhân chính đem đến thành công cho cuộc biến.

Cuộc biến đạt được thắng lợi nhanh chóng, giết được Hoàng Đình Bảo, hạ bệ được phe cánh Đặng Thị Huệ và lấy được ngôi chúa cho Trịnh Tông, dân kinh thành có được một chuyện vui là kéo đi xem chúa “đông như họp chợ”, còn binh lính thì hả hê, reo mừng, người đi đường đều hí hửng nói ““chúa ta lập rồi”, kinh kì phải nghỉ phiên chợ!

Tuy nhiên, đối với gia đình họ Trịnh, sự kiện này là bằng chứng của sự sụp đổ hoàn toàn của uy quyền phủ chúa. Hai anh em Trịnh Tông, kẻ thì sợ quá mà chết, kẻ thì trở thành đồ chơi, con rối trong tay quân lính. Cuộc rước Trịnh Tông từ nhà Tả Xuyên sang phủ chúa chẳng có lấy một chút uy nghiêm mà nói như GS. Hoàng Hữu Yên: “Đúng là một trò đùa giỡn!”. Họ “dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc, họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội, đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật. Mỗi lần, thế tử được nhô cao lên, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem chúa, sân phủ đông như họp chợ!”.

Quả thật cuộc đăng quang của một vị chúa chính thống như Trịnh Tông ngày 24 tháng 10 năm Nhâm Dân (1782) chỉ là một màn bi hài kịch mà với những nhà nho tâm huyết có thể cười ra nước mắt.

Khác với bút pháp truyện cổ tích, truyện Nôm,..., nhân vật và hoàn cảnh được lí tưởng hoá, phân tuyến rạch ròi, Kiêu binh nổi loạn không thế, đã được ghi chép gần gũi với hiện thực. Điều đó được thể hiện trong việc xây dựng các nhân vật. Kiêu binh nổi loạn có hai phe: Trịnh Tông và Trịnh Cán; phe Trịnh Tông có thể xem là chính thống, phe Hoàng Đình Bảo và Đặng Thị Huệ là phản nghịch nhưng cả hai đều không có những nhân vật cực đoan, hoặc quá hoàn hảo, hoặc quá xấu xa, mà nói chung đều đa dạng, đều thực. Lấy nhân vật Hoàng Đình Bảo làm ví dụ. Hoàng là nhân vật phản diện, thao túng cả triều đình, nhiều tham vọng, quyền mưu nhưng y vẫn còn chút ánh sáng trong lương tâm, thể hiện ở việc đối xử với Trịnh Tông, người đã từ chối sự cộng tác và đe doạ sẽ giết Hoàng, đối thủ chính có thể đem đến sự nguy hiểm cho sự nghiệp của Hoàng. Hoàng còn có thể khóc khi người ta đặt vấn đề tính mạng của Tông với y:

“Quận Huy vừa khóc vừa trả lời:

- Tôi thờ tiên chúa, được chịu ơn huệ đã nhiều, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng tình là cha con. Thế tử cũng là con của chúa tôi, tôi có lòng nào, thì xin trời đất tru diệt. Phu nhân trở về, cho tôi gửi lời trình trước màn tang của vương tử và quý cung tần rằng, xin cứ yên lòng, tôi sẽ hết sức giúp đỡ, không có điều gì phải lo ngại.”.

Đó là điều khả thủ trong nhân cách Quận Huy. Thêm nữa, ngay đến lúc bại trận, Huy vẫn chọn được cái chết xứng đáng, và trong toàn bộ màn kịch này chỉ có

Huy là người còn có một lúc có thể đem cái uy của mình áp đảo quân lính:

“Quân lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới”.

Màn ra trận của Quận Huy cũng hào hùng và Huy đã chết một cách đàng hoàng, đáng để cho người đời phải nể.

Bên phe Trịnh Tông thì trái lại, không tìm được một nhân vật nào sáng giá. Dự Vũ chỉ là anh đầu bếp, được một ưu điểm “cơ trí, nói năng rành mạch”, Gia Thọ thì có chút “tinh khôn”, Bằng Vũ có vai trò nổi nhất nhưng chỉ là anh biện lại biết “dăm ba chữ”, thường làm mướn đơn kiện cho người ta và “vẫn lừng danh là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị”; Bùi Bật Trực là anh chàng viên ngoại lang đã mắt việc muốn “nhập bọn đề hớt lấy công”. Quốc cữu, Nguyễn Kiêm, Quận Hoàn, những vị tai mắt mà thân binh muốn nhờ đều là những kẻ nhút nhát, chỉ muốn giữ sự giàu sang của gia đình mình nên nghe đến chuyện ấy thì đều hoặc là “sợ lắm” hoặc là “chối đây đẩy”. Trịnh Tông đương nhiên là một kẻ bất tài nhưng lại tham quyền bính, không từ cả việc tranh giành với em, tuy nhiên y lại không hẳn là con người “cạn tàu ráo máng”. Chiếm được ngôi chúa rồi, Tông đã treo giải một trăm lạng vàng và tước hầu cho thầy thuốc nào chữa khỏi bệnh cho chúa em. Và đến một lúc nào đó Tông cũng nhận thức ra rằng việc điều hành đất nước mà phải chịu sức ép của đám “lính tráng thô lỗ” là một sai lầm.

Cuối cùng, nhân vật chính trong cuộc chiến này là đám kiêu binh. Họ có công đem lại ngôi chúa cho con trưởng, theo nho gia đó là “phò chính”, song đối với lịch sử, họ lại có công ở chỗ đẩy nhanh sự sụp đỗ của một thể chế đã hết sức mục ruỗng. Họ là những nạn nhân của sự đè nén, của thân nô lệ, “tức nước vỡ bờ”, họ cũng mong tìm một vị chúa, một vị chính thể dễ thở hơn và họ có sức mạnh, khi đã đồng lòng họ làm được tất cá. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, họ dẫu sao vẫn là một đám đông ít học, tự phát và vô chính phủ. Họ lại nặng về trả thù cá nhân, dễ bị kích động và thích đập phá hơn là biết quý trọng những giá trị văn hoá, tinh thần. Có nhà nghiên cứu cho rằng tác giả Hoàng Lê nhất thông chỉ đã đánh giá thấp hoặc quá khắt khe với kiêu binh, song có lẽ đó chính là giá trị hiện thực của ngòi bút tác giả. Như một danh nhân đã nói “đám đông dốt nát và manh động” thế tất không thể làm được việc lớn.

Trái với chương Quang Trung đại phá quân Thanh là một bản anh hùng ca, Kiêu binh nổi loạn là một màn bi hài kịch. Đoạn rước Trịnh Tông về phủ chúa quả thật không thể tả hay hơn. Ngòi bút lạnh lùng của tác giả đã đạt đến trình độ sắc sảo tuyệt vời của văn châm biếm.

Ngoài ra, sự đối lập giữa danh nghĩa cao cả như “phò chính”, vì “cơ nghiệp của tiên vương”, vì “xã tắc là trọng”,... với những toan tính nhỏ nhoi: “cái chân quốc cữu tiền triều”, “hớt công”, “sợ vạ lây”, “trả thù những quan hầu nghiệt ngã mà hằng ngày quân lính vẫn ghét”, niềm vui mừng vì một vị chúa chân chính đăng quang mà chỉ đáng để dân kinh kì nghỉ một phiên chợ..., đã vạch ra sự vô nghĩa và tính chất trò hề của tất cả mọi việc quốc gia đại sự, từ những phạm trù lí tưởng đến sự tuế toái(1) đối với nhân vật đám đông, ngòi bút tác giả Hoàng Lê nhất thống chí cũng có cách xây dựng riêng. Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống, họ cũng bộc lộ những mặt yếu mà tác giả không tha châm biếm. Cảnh quân sĩ đánh giết Quận Huy có chất hào hùng của một sự “tức nước vỡ bờ”, nhưng cảnh rước Trịnh Tông với những trạng thái tình cảm: “đứng xúm chung quanh, gào lên vui sướng”, “vỗ tay reo hò vang lên một chặp”, hành động kéo nhau đi xem chúa và thái độ “hí hửng” bảo nhau: “Chúa ta lập rồi!”  cho phép người đọc nghi ngờ sự hiểu biết thật sự của họ. Đó chẳng qua chỉ là sự “a dua”, sự trống rỗng về trí tuệ của đám đông mà đã từ lâu lắm bị đè nén, bị nô dịch. Màn kịch này của Hoàng Lê nhất thống chí có thể gợi liên tưởng đến xã hội làng Mùi và chú AQ trong “cách mạng” dưới ngòi bút của Lỗ Tấn sau này.

Đánh giá Hoàng Lê nhất thống chí là việc của một công trình khoa học khác,tuy nhiên, riêng với đoạn trích này ngòi bút tả thực và trào phúng của các tác giả đã là một giá trị xuất sắc, góp phần làm nên giá trị vĩnh cửu của tác phẩm.”.

(Trần Thị Băng Thanh, Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr.262-267)

(1) Tuế toái: qua loa, sơ sải.

a) Xác định phần mở bài, thân bài và kết bài của văn bản trên.

b) Trong phần thân bài, hãy tìm các luận điểm mà tác giá muốn trình bày.

c) Chọn một đoạn và chỉ ra các câu / đoạn văn thể hiện sự phân tích và ý kiến nhận xét, đánh giá của tác giả bài viết.

Trả lời:

a) Mở bài: “Hoàng Lê nhất thống chí có nghĩa là ghi chép... sự sụp đổ cơ đồ họ Trịnh và kéo theo cả sự sụp đổ của nhà Lê.”.

Thân bài: “Thông thường các cuộc chính biến... dưới ngòi bút của Lổ Tấn sau này.”.

Kết bài: “Đánh giá Hoàng Lê nhất thống chí là việc của một công trình khoa học khác, tuy nhiên riêng với đoạn trích này ngòi bút tả thực và trào phúng của các tác giả đã là một giá trị xuất sắc, góp phần làm nên giá trị vĩnh cửu của tác phẩm.”.

b) Luận điểm 1: Cuộc nổi loạn của kiêu binh vừa mang tính ngẫu nhiên lại cũng vừa mang tính tất yếu.

Luận điểm 2: Kiêu binh nổi loạn là một cuộc chính biến kì lạ, đúng với nghĩa của chữ “loạn”.

Luận điểm 3: Khác với bút pháp truyện cổ tích, truyện Nôm,..., nhân vật và hoàn cảnh được lí tưởng hoá, phân tuyến rạch ròi, Kiêu binh nổi loạn đã được ghi chép gần gũi với hiện thực.

Luận điểm 4: Kiêu binh nổi loạn là một màn bi hài kịch.

c) Có thể chọn đoạn: “Khác với bút pháp truyện cổ tích, truyện Nôm.... thế tất không thể làm được việc lớn.”. Ở đoạn này, sau khi đưa ra nhận định và cũng là luận điểm (“Khác với bút pháp truyện cổ tích, truyện Nôm,..., nhân vật và hoàn cảnh được lí tưởng hoá, phân tuyến rạch ròi, Kiêu binh nổi loạn không thế, đã được ghi chép gần gũi với hiện thực.”), tác giả đã tiến hành việc phân tích nhân vật để làm sáng tỏ (“Điều đó được thể hiện trong việc xây dựng các nhân vật...”). Từ phân tích nhân vật tiêu biểu của phe Trịnh Tông (Hoàng Đình Bảo) đến các nhân vật phe Trịnh Cán (“Kiêu binh nổi loạn có hai phe: Trịnh Tông và Trịnh Cán; phe Trịnh Tông có thể xem là chính thống, phe Hoàng Đình Báo và Đặng Thị Huệ là phản nghịch nhưng cả hai đều không có những nhân vật cực đoan, hoặc quá hoàn hảo, hoặc quá xấu xa, mà nói chung đều đa đạng, đều thực. Lấy nhân vật Hoàng Đình Bảo làm ví dụ... Bên phe Trịnh Tông thì trái lại, không tìm được một nhân vật nào sáng giá. Dự Vũ chỉ là anh đầu bếp, được một ưu điểm “cơ trí, nói năng rành mạch”, Gia Thọ thì có chút “tính khôn”, Bằng Vũ có vai trò nổi nhất nhưng chỉ là anh biện lại biết “dăm ba chữ” thường làm mướn đơn kiện cho người ta và “vẫn lừng danh là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị”;..); rồi sau đó là nhân vật đám đông - kiêu binh (“Cuối cùng nhân vật chính trong cuộc chiến này là đám kiêu binh. Họ có công đem lại ngôi chúa cho con trưởng, theo nho gia đó là “phò chính”, song đối với lịch sử họ lại có công ở chỗ đây nhanh sự sụp đồ của một thể chế đã hết sức mục ruỗng.”).

Những nhận xét, bình luận của người viết cũng được thể hiện trước, trong và sau khi phân tích. Chẳng hạn, trước khi phân tích: “Khác với bút pháp truyện cổ tích, truyện Nôm,..., nhân vật và hoàn cảnh được lí tưởng hoá, phân tuyến rạch ròi, Kiêu binh nổi loạn không thế, đã được ghi chép gần gũi với hiện thực”; trong khi phân tích: “Hoàng là nhân vật phản diện, thao túng cả triển đình, nhiều tham vọng, quyền mưu nhưng y vẫn còn chút ánh sáng trong lương tâm” hay “Đó là điều khả thủ trong nhân cách Quận Huy” hoặc “Màn ra trận của Quận Huy cũng hào hùng và Huy đã chết một cách đàng hoàng đáng để cho người đời phải nể”; sau khi phân tích: “Có nhà nghiên cứu cho rằng tác giá Hoàng Lê nhất thông chí đã đánh giá thấp hoặc quá khắt khe với kiêu binh song có lẽ đó chính là giá trị hiện thực của ngòi bút tác giả. Như một danh nhân đã nói: “đám đông dốt nát và manh động” thế tất không thể làm được việc lớn.”.

Câu 4 trang 39 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Tìm ý và lập dàn ý cho bài phân tích, đánh giá tác phẩm Tự tình (bài 2) (Hồ Xuân Hương), từ đó, viết bài phân tích, đánh giá tác phẩm nêu trên.

Trả lời:

Tìm ý bằng cách trả lời các câu hỏi sau:

- Cái hay về nội dung của tác phẩm là gì?

+ Về đề tài

+ Về chủ đề

+ Về cảm hứng

- Hình thức nghệ thuật nào là đặc sắc?

+ Hình ảnh thơ

+ Câu thơ

+ Biện pháp tu từ

+ Giọng điệu

- Tác dụng của yếu tố hình thức đó trong việc thể hiện nội dung và ý nghĩa của tác phẩm là gì?

Lập dàn ý bằng cách lựa chọn các ý đã tìm được để sắp xếp vào ba phần của bài viết cho hợp lí.

+ Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ.

+ Thân bài:

Giới thiệu chung về tác phẩm: hoàn cảnh sáng tác, đặc điểm thể loại,...

Phân tích, đánh giá cái hay về nội dung của bài thơ.

Phân tích nét đặc sắc, độc đáo, mới lạ,... của từng yếu tố hình thức nghệ thuật được lựa chọn và đánh giá tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung của bài thơ.

+ Kết bài:

Đánh giá chung về cái hay, cái đặc sắc của bài thơ.

Mở rộng đánh giá giá trị của tác phẩm trong sự nghiệp thơ Hồ Xuân Hương hoặc trong chùm thơ Tự tình,...

Các em viết bài phân tích, đánh giá tác phẩm Tự tình (bài 2) - Hồ Xuân Hương dựa vào dàn ý đã lập được.

Tham khảo bài viết sau:

Tự tình (bài 2)

Xuân Hương sáng tác một loạt ba bài Tự tình (Kể nỗi lòng)... Bài thứ nhất (Tự tình (bài 1)) lấy cảm hứng vào lúc đã có tiếng gà báo sáng (“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”); bài thứ hai (Tự tình (bài 2)) lấy cảm hứng vào lúc đêm đã về khuya (“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”). Đó là thời khắc của hạnh phúc lứa đôi, của sum họp vợ chồng, vì thế cũng là thời khắc người vợ lẽ hay người goá phụ cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thía nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của

thân phận mình:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.

Đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn tỉnh thức - vì không ngủ được hay không muốn ngủ? - ngồi lắng nghe tiếng trống cầm canh nơi một đồn ải nào vẳng lại, nhắc nhở một cách quái ác thời gian dường như cứ dồn đuổi nhau trôi đi, trôi đi một cách uổng phí và vô nghĩa lí trên thân phận trớ trêu của người đàn bà vẫn khao khát hạnh phúc mà phải chịu cảnh chăn đơn, gối chiếc,...

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chữ nghĩa của Xuân Hương bao giờ cũng trần trụi đến tàn nhẫn như thế.

Khi nhà thơ dùng đến hai chữ “hồng nhan” thì có nghĩa là ở người thiếu phụ xuân sắc vẫn còn, xuân tình chưa cạn, vậy mà cứ phải “trơ” ra đó, không kẻ đoái hoài. Có người hiểu chữ “trơ” theo nghĩa trơ lì, không còn cảm giác: “Đau thương, ê chề ngấm sâu dần, sâu dần vào xương cốt, biến con người thành vật vô tri”), Đây là cách hiểu chữ “trơ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Tôi cho rằng, hiểu thơ như thế là trái ngược với tư tưởng tác giả trong Tự tình (bài 2) này. Người đàn bà này, đúng là đã nếm trải nhiều bất hạnh, nhưng tâm hồn vẫn luôn luôn cháy bỏng, luôn luôn sôi sục, một tâm trạng bồn chồn không yên, thể hiện ở hai câu thực:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Uống rượu để quên đời, nhưng không quên được: “say lại tỉnh”, khao khát sự thoả mãn mà ngó ra ngoài trời chỉ thấy đêm tàn, trăng khuyết.

Nhưng đây mới thực là tính cách và ngôn ngữ Xuân Hương:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá máy hòn.

Thế giới hình tượng của thơ Xuân Hương bao giờ cũng hoạt động mạnh mẽ và huyên náo như thế. Đó là không gian, thời gian trần tục, trần thế nên luôn luôn vận động, sôi sục, đối lập với không khí tĩnh lặng, phi thời gian của cổ thi (“Mõ thảm không khua mà cũng cốc / Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”; “Lắt léo cành thông cơn gió thốc / Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”; “Gió giật sườn non khua lắc cắc / Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”,... Ngay cả màu sắc trong thơ Xuân Hương nhiều khi cũng như muốn gào lên, muốn hét lên: “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc / Hòn đá xanh rì lún phún rêu”; “Một trái trăng thu chín mõm mòm / Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom”,...).

 Tuy nhiên, âm thanh hay màu sắc, dù sao tự nó cũng phát ra tiếng động hoặc hiện thành xanh, vàng, trắng, đỏ,... Nhà thơ chỉ cần phóng đại thật to, tô cho thật đậm để trở thành âm thanh, màu sắc độc đáo của Xuân Hương. Nhưng dưới ngòi bút của nữ sĩ họ Hồ, ngay cả những vật hoàn toàn tĩnh tại, hoàn toàn bất động cũng đột nhiên trở thành biết cựa quậy, biết vùng vẫy, biết phá phách: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám / Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Thủ pháp đảo ngữ được sử dụng ở đây càng nhấn mạnh tính hoạt động mạnh mẽ, dữ dội của thế giới nghệ thuật Hồ Xuân Hương.

Vậy là “cái tôi” đầy sức sống mà bị dồn nén của Xuân Hương từ những câu đề,qua hai câu thực, đến những câu luận, cứ nổi lên dần: lúc đầu là nỗi chán chường,ngán ngẩm “Trơ cái hồng nhan với nước non”, tiếp đó là tâm trạng bực dọc, bồn chồn, muốn say mà không say được, trong khi đêm thì tàn mà trăng vẫn khuyết:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh / Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Cuối cùng là nỗi bức bối, niềm phẫn uất muốn vùng lên phá phách. Khát vọng sống của con người này, yêu cầu thực hiện triệt để tính cách, cá tính của người đàn bà đặc biệt này, chẳng những chế độ phong kiến không dung nổi, mà đến trời đất cũng trở nên chật hẹp.

Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Hương thường đặt nhân vật của mình đối diện với thiên nhiên rộng lớn, kề vai với vũ trụ mênh mông (“Thân em vừa trắng lại vừa tròn / Bảy nổi ba chìm với nước non”; “Gan nghĩa giải ra cùng nhật nguyệt /

Khôi tình cọ mãi với non sông”; “Văng vẳng bên tai tiếng khóc chồng / Nín đi kẻo thẹn với non sông”; “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn / Trơ cái hồng nhan với nước non”,... Ấy là một con người có kích cỡ đặc biệt, không phải chỉ của bản thân mình hay của một gia đình, một làng, một xã, mà còn là của nhân dân, của đất nước, của tạo hoá, của vũ trụ. Có nghĩ như vậy, ta mới hiểu được vì sao Xuân Hương có thể tự đặt mình từ thế đứng rất cao với thái độ và giọng điệu hết sức kể cả khi đối thoại với đời, dù đó là những bậc hiền nhân quân tử, là thái thú Sầm Nghi Đống, là những đấng anh hùng (“Mát mặt anh hùng khi tắt gió”), thậm chí là vua, là chúa (“Chúa dấu, vua yêu một cái này” - Vịnh cái quạt).

Nhưng Xuân Hương, dù tư tưởng có thể đi trước thời đại, trong đời thực vẫn không thể vượt khỏi thân phận của mình. Vì thế, những hành vi phá phách, nổi loạn dù táo tợn thế nào cũng chỉ là những vùng vẫy trong giới hạn của ngôn từ mà thôi. Nhà thơ đành chấp nhận số phận của mình bằng một tiếng thở dài ngao ngán:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

Nhưng Xuân Hương đích thực là nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu của sự sống tươi ròng, của tinh thần lạc quan, yêu đời. Đó cũng chính là chất dân gian đậm đặc của hồn thơ này. Đọc thơ Xuân Hương, thấy có đủ cả buồn khổ, đắng cay, chán chường, căm uất, đủ cả oán thù, phẫn nộ, thậm chí muốn tung hê tất cả, phá phách tất cả,.... nhưng không bao giờ mất hết niềm tin ở cuộc đời, ở sự sống. Điều ấy có thể cảm nhận rất rõ ở thế giới nghệ thuật hết sức sống động của nữ sĩ, một thế giới không bao giờ hoàn toàn vắng lặng: nếu không có tiếng chuông chùa văng vẳng, tiếng mõ, tiếng trống cầm canh, thì cũng có tiếng “gà gáy trên bom”, tiếng “sóng dồn mặt nước”, tiếng “gió giật sườn non”, hay “cành thông gió thốc”... Và nếu lắng nghe còn thấy “Rúc rích thây cha con chuột nhắt / Vo ve mặc mẹ cái ong bầu”,... Một thế giới hình tượng sống động, luôn cựa quậy, luôn hoạt động: “Cỏ gà lún phún leo quanh mép / Cá giếc le te lách giữa dòng”; “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám / Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”; “Gan nghĩa giải ra cùng nhật nguyệt / Khối tình cọ mãi với non sông”,... Một thế giới đầy màu sắc trẻ trung, hồng hào, tươi tốt, chan chứa xuân sắc, xuân tình,... Tất cả đều được phát hiện và đánh giá theỏ một quan điểm mĩ học độc đáo của Xuân Hương: lấy vẻ đẹp thanh tân, khoẻ khoắn,... của người đàn bà giữa tuổi xuân làm chuẩn. Trong thế giới nghệ thuật ấy, tiếng khóc không hắn là tuyệt vọng và cái chết không hề muốn ngăn đường sự sống (Khóc Ông phú Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc,...).

Đúng là Tự tình (bài 2) đã kết thúc bằng một lời chua chát: “Ngán nỗi xuân đi

xuân lại lại / Mảnh tình san sẻ tí con con”. Nhưng như thế là tuổi xuân chưa hết, tình xuân vẫn đây.

Xưa thường có câu: “Chữ rằng, xuân bất tái lai”. Nhưng Xuân Hương lại nói “Xuân đi, xuân lại lại”, có nghĩa là người đàn bà vẫn còn có cái để chờ đợi, để ước ao, tuy rằng hạnh phúc mong đợi ấy chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.

Có một vấn đề rất nên đặt ra đối với thơ Hồ Xuân Hương nói chung: Vì sao tư tưởng dân gian gần như thuần chủng, nguyên chất ở Xuân Hương lại không được diễn đạt bằng các thể thơ dân gian như lục bát, song thất lục bát mà lại tự ép mình vào khuôn khổ thơ Đường, một thể thơ bác học ngoại nhập, luật lệ rất nghiêm minh? Lại một nét oái oăm, độc đáo của thơ Xuân Hương chăng? Nhưng ngẫm ra, thấy sự chọn lựa của nữ sĩ rất có lí, có thể nói là rất tự nhiên nữa.

Song thất lục bát là thể ngâm, hợp với lời trữ tình than thở. Lục bát thì mạnh về khả năng tự sự và thiên về diễn tả tình cảm thiết tha. Nhưng thơ Xuân Hương không chỉ có tình cảm mà còn có trí tuệ, có tư tưởng, đồng thời có nhu cầu tạo tính đa nghĩa trên mỗi dòng thơ, từ mỗi hình ảnh, mỗi ngôn từ: nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, nghĩa trần trụi, nghĩa ỡm ờ, nghĩa từ vựng, nghĩa xã hội - tâm lí, nghĩa thanh, nghĩa tục,...

Muốn đạt được những yêu cầu ấy, Xuân Hương rất cần đến khả năng của thất ngôn bát cú, của cấu trúc chặt chẽ, của luật đối ngẫu và của tính hàm súc với khả năng dồn nén nhiều nghĩa và tạo ý ngoài lời (ý tại ngôn ngoại).

Nhưng Xuân Hương, một mặt khai thác khả năng của thơ Đường, mặt khác lại cố tình xoá sạch, khước từ điển tích, điển cố, lối diễn đạt ước lệ cách điệu hoá, sự sử dụng màu sắc tao nhã, trừu tượng, thay vào đây là sự khai thác triệt để những ngôn từ thuần Việt và các thủ pháp nghệ thuật dân gian, đặc biệt là nghệ thuật trào phúng, hồn nhiên và táo tợn của ca dao, dân ca, của truyện tiếu lâm Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,... Và trên cái văn bản Việt hoá và dân gian hoá đó, bao giờ cũng hằn lên cái dấu triện “Xuân Hương hoá” đầy cá tính độc đáo và mãnh liệt của “thiên tài kì nữ”(1)  họ Hồ.”.

Câu 5 trang 39 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Viết bài văn phân tích, đánh giá tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa).

Trả lời:

Tham khảo bài viết sau:

Lính đảo hát tình ca trên đảo

 Một loạt bài thơ của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo và người lính được bạn đọc hoan nghênh đón nhận như: Tự tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài,... và đây là thi phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo. Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. Nhờ đó, tác phẩm neo vào lòng người sâu sắc, bền chặt suốt mấy chục năm qua.

Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Cái sân khấu dựng lên giữa trời biển bao la ấy phải kì công và độc đáo lắm mới chịu nổi cái gió như quăng quật, tấp táp vào mặt con người. Sân khấu kê lên từ đá san hô biển, cánh gà phải dựng bằng tôn, tất cả đều tạm bợ thế thôi, vì không có phông màn nào chịu nổi thông thốc của gió trời biển đảo:

Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vài tấm tôn chôn máy cánh gà

Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa.

Nhưng sự thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây có sự đối lập giữa cái khắc nghiệt của thiên nhiên và sự dũng cảm, lạc quan của người lính. “Gió rát mặt”, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thuỷ triều xuống lên liên tục khiến cho đảo cũng thay hình đổi dạng không ngừng. Quả là một vùng đất đầy gian nan, thử thách đối với người lính. Tuy vậy, người lính vẫn hiên ngang, lãng mạn và hào sảng:

Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng

Sỏi cát bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu

Ta bắt đầu thôi. Máy nước đã mở màn...

Từ “mây nước mở màn”, hình tượng người lính đảo hiện lên thật độc đáo, tếu táo qua hình dáng bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn, nhờ đó đã giúp cho Trần Đăng Khoa có được một giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa nhưng tạo được cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghỉ với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”. Đọc đến đây, hẳn chúng ta không thể quên hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng tếu táo và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm”:

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.

Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hoá thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao! Quả vậy, chính cuộc sống gian nan giữa nước trời thăm thẳm ấy, hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: Khát khao một tình yêu chảy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thuỷ thiết tha.

Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kì lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”. Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động. Chính cái giọng phớt đời, tưng tửng lại là chỗ xót xa và lấy nhiều nước mắt của người đọc:

Cái giai điệu ngang tàng như gió biển

Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi

Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa

Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời...

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng

Hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình.

Hóm hỉnh nhất là khổ thơ với các câu hỏi tu từ tự vấn về người yêu của người lính đảo. Họ hát tình ca, yêu đắm say và nhớ thương tha thiết chỉ qua tưởng tượng, thành ra họ hình dung về người yêu của mình cũng có năm bảy đường khác biệt. “Các em ở phương nào?”, “Các em cao hay thấp?” Xót xa nhất là bóng dáng nào sẽ đến với các anh như một câu hỏi xoáy sâu vào lặng lẽ, vào thăm thẳm ruột gan mong chờ khao khát mỗi khi đêm về trông ra chỉ bốn bề mây nước âm u:

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?

Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được

Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?

Trông bốn phía chỉ âm u mây nước.

Lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thuỷ chung, khẳng định chủ quyền đất nước. Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được:

Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngục ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này.

Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thuỷ triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay:

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ô, hoá ra toàn những đá trọc đầu....

Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa là một bài thơ hay, để lại ấn tượng sâu sắc từ khi ra đời cho đến nay. Từ cầu tứ, hình ảnh, giọng điệu, tất cả đọc lên cứ vừa tếu táo, bông đùa nhưng lại cảm thương sâu sắc về cuộc đời người lính biển. Họ trở thành tượng đài bất khuất giữa trùng khơi, như một minh chứng cho lòng quả cảm, sự kiên cường của một dân tộc chưa bao giờ khuất phục, sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Tình ca và hùng ca, hóm hỉnh và lắng đọng, trần trụi và đầy suy tư,... là những trạng thái cảm xúc hài hoà, gắn kết xuyên suốt bài thơ [...] Qua đó, khơi dậy niềm tự hào và tình yêu biển đảo đối với thế hệ trẻ, nhất là ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của người lính biển trong vai trò bảo vệ chủ quyền đất nước trong giai đoạn hiện nay.”.

Xem thêm các bài giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:


Giải bài tập lớp 10 Cánh diều khác