(Siêu ngắn) Soạn bài (Nói và nghe trang 30) Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích - Cánh diều

Bài viết soạn bài Nói và nghe: Kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích trang 30, 31 siêu ngắn gọn sách Ngữ văn 6 Cánh diều giúp học sinh lớp 6 dễ dàng soạn văn 6.

1. Định hướng

a) Ở phần Nói và nghe, các em không viết thành văn mà kể lại truyền thuyết hoặc cổ tích đó bằng lời.

b) Để kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích, các em cần

- Bám sát các sự kiện chính của truyện, nhưng cũng có thể sáng tọa thêm các chi tiết, hình ảnh, cách kết thúc truyện,…

- Phân biệt kể miệng (văn nói) với kể bằng viết (văn viết); chú ý cách kể, giọng kể, kết hợp với ngôn ngữ hình thể (cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,…) phù hợp với nội dung câu chuyện. Trong trường hợp cần thiết, người kể có thể sử dụng các thiết bị hỗ trợ (tranh, ảnh, video,…

2. Thực hành

Bài tập: Kể lại truyền thuyết “Thánh Gióng” bằng lời của em.

a) Chuẩn bị

- Đọc lại truyện.

- Sắp xếp tranh ảnh hoặc các phương tiện hỗ trợ khác (nếu có).

b) Tìm ý và lập dàn ý

- Mở bài:

+ Lí do kể lại: Trong rất nhiều tác phẩm đã đọc và từng được học, thì em thấy Thánh Gióng là câu chuyện có ấn tượng sâu sắc.

+ Giới thiệu về tác phẩm: Thánh Gióng một tác phẩm truyền thuyết đặc sắc.

- Thân bài: Kể lại những sự kiến chính bằng lời văn của em.

+ Hoàn cảnh ra đời khác thường của Gióng:

• Hai ông bà đã già, chưa có con.

• Bà lão giẫm lên một dấu chân khổng lồ, về nhà thụ thai.

• Mười hai tháng sau bà sinh một đứa con trai.

• Khi ba tuổi chú bé vẫn chưa biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi.

+ Gióng xin đi đánh giặc và lớn nhanh như thổi:

• Giặc Ân xâm lược, thế giặc mạnh, vua cho sứ giả đi tìm người tài.

• Chú bé bỗng nhiên nói được, nhờ mẹ mời sứ giả. Nói với sứ giả đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt.

• Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai mặc áo giáo sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt.

+ Gióng ra trận đánh giặc:

• Giặc đến chân núi Trâu. Sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến.

• Chú bé vươn vai thành tráng sĩ khổng lồ, vỗ vào mông ngựa, ngựa hí vang. Tráng sĩ mặc giáp, cầm roi, cưỡi ngựa ra trận. Ngựa xông vào giặc; tráng sĩ cầm roi đánh giặc, ngựa sắt phun lửa thiêu giặc. Giặc chết như.

• Roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre đánh giặc.

+ Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ lên núi, cởi áo để lại, người cùng với ngựa bay lên trời.

+ Vua ghi nhớ công ơn Thánh Gióng.

+ Gióng để lại nhiều dấu tích.

- Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về truyện hoặc nhân vật chính trong Thánh Gióng.

c) Nói và nghe

- Dựa vào dàn ý và thực hiện việc kể chuyện.

- Đảm bảo nội dung và cách kể hấp dẫn.

Bài nói tham khảo

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, mình sẽ kể lại câu chuyện truyền thuyết mà mình vô cùng thích, đó là truyền thuyết Thánh Gióng.

Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nghèo. Họ chăm chỉ làm lụng quanh năm nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, bà lão ra đồng thì nhìn thấy một vết chân to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Đến khi về nhà thì mang thai. Bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé khôi ngôi. Cậu bé lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói biết cười.

Lúc bấy giờ, giặc Ân đến xâm lược nước ta. Nhà vua muốn tìm người tài đánh giặc cứu nước nên đã cử sứ giả đi rao khắp nơi. Khi đến làng Gióng thì kì lạ thay, cậu bé bỗng cất tiếng nói:

- Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!

Sứ giả vào, cậu liền bảo với sứ giả về tâu với vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt để đánh giặc. Từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo mặc mấy cũng không vừa. Hai vợ chồng làm bao nhiêu không đủ, phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Cả làng vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, ai cũng mong cậu giết giặc cứu nước.

Giặc đánh đến nơi, vừa lúc sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến, bỗng cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, rồi phun lửa vào đám giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Đến khi roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ tre làm vũ khí. Quân giặc chết như ngả rạ.

Tráng sĩ đánh giặc xong cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ công ơn tôn là Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Phần kể chuyện của mình đến đây là kết thúc. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.

d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 6 Cánh diều siêu ngắn, hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 6 hay khác:


Giải bài tập lớp 6 Cánh diều khác