Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng nâng hạng giáo viên THCS hạng II mới nhất
Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng nâng hạng giáo viên THCS hạng II
BÀI THU HOẠCH CUỐI KHÓA
LỚP BỒI DƯỠNG TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP
GIÁO VIÊN THCS HẠNG 2, NĂM 2017
Đề bài
Từ những kinh nghiệm thực tiễn và những kiến thức đã học trong khóa học bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng 2. Anh (chị) hãy rút ra những bài học để phát triển chuyên môn và phát triển đơn vị mình công tác.
Bài làm
Sau khi tham gia khóa học bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II em đã được tiếp thu những kiến thức bổ ích từ các chuyên đề như: các kiến thức về quản lý nhà nước, chiến lược và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, quản lý giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong cơ chế thị trường định hướng XHCN, tổ chức hoạt động dạy học xây dựng và phát triển kế hoạch dạy học ở THCS, phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II, thanh tra kiểm tra và một số hoạt động đảm bảo chất lượng, dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, giáo viên với công tác tư vấn học sinh. Trong các chuyên đề trên đều là những kiến thức bổ ích phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ của bản thân mỗi giáo viên. Một trong các chuyên đề của khóa học đã giúp em hiểu sâu hơn và để áp dụng có hiệu quả trong hoạt động dạy học của bản thân đó là chuyên đề “ Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh” , đây cũng là chuyên đề mà các đơn vị trường học trong huyện em đã triển khai và đang thực hiện trong năm học 20...-20...
Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học – từ chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học sinh học được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhắm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục.
Trong những năm qua, toàn thể giáo viên cả nước đã thực hiện nhiều công việc trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đã đạt được những thành công bước đầu. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng ta tiến tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển năng lực của người học. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh… chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá còn nhiều hạn chế, chú trọng đánh giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá cả quá trình học tập. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn.
Vì những lí do trên, em chọn chuyên đề: “ Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh” để làm bài thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng dạy học của bản thân.
Về nội dung chuyên đề gồm có những nội dung chính sau:
1. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử dụng như sau:
1. Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành
2. Trong chương trình, những nội dung học tập và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng lực
3. Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn.
4. Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hóa các nội dung và hoạt động và hành động dạy học về mặt phương pháp
5. Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình huống..
6. Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên biệt tạo thành nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy
7. Mức độ phát triển năng lực có thể được xác định trong các tiêu chuẩn nghề; Đến một thời điểm nhất định nào đó, HS có thể / phải đạt được những gì?
Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân… nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực hiện một loại công việc nào đó.
Năng lực của người học là khả năng làm chủ hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ... và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho họ trong cuộc sống.
2. Dạy học theo tiếp cận trang bị kiến thức và dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
Dạy học định hướng phát triển năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của người học.
Để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các thành phần và cấu trúc của chúng. Có nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và các thành phần năng lực cũng khác nhau. Cấu trúc chung của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần: Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể.
Dạy học theo tiếp cận trang bị kiến thức và dạy học theo định hướng phát triển năng lực: Năng lực trong dự thảo chương trình giáo dục phổ thông. Các năng lực chung: Năng lực tự chủ; Năng lực hợp tác; Năng lực sáng tạo. Các năng lực đặc thù: Năng lực giao tiếp; Năng lực tính toán; Năng lực Tin học; Năng lực thẩm mỹ; Năng lực thể chất.
3. Mô hình giảng dạy theo định hướng phát triển năng lực học sinh gồm có:
Thuyết kiến tạo: Con người chủ động tự xây dựng kiến thức cho bản thân. Người học kết nối thông tin mới với thông tin hiện tại để kiến thức mới có ý nghĩa với cá nhân người đó.Con người xây dựng kiến thức của riêng mình và thể hiện kiến thức từ trải nghiệm của mình. Mỗi người học tự xây dựng hiểu biết hợp lý mang tính cá nhân của riêng mình. Kiến thức được hình thành thông qua tương tác xã hội. Học tập không phải bị động thu nhận mà do người học chủ động kiến tạo thông qua trải nghiệm và suy ngẫm
Phương pháp giảng dạy thuyết kiến tạo: Học tập tích cực, học bằng việc làm , lấy học sinh làm trung tâm, học tập qua vấn đề, học tập qua dự án, học tập qua trải nghiệm, học tập qua khám phá, học tập gợi mở, học tập theo nhóm.
Dạy học phân hóa: là một tiến trình dạy học vận dụng đa dạng các phương tiện, thiết bị giảng dạy và học tập cho phép học sinh có lứa tuổi khác nhau, nguồn gốc khác nhau, năng lực, kĩ năng khác nhau nhưng cùng tiến bộ và thành công trong học tập.
Dạy học phân hóa, đó là:
Tiến trình dạy học gồm đa dạng các phương tiện, thiết bị và phương pháp giảng dạy, học tập nhằm cho phép học sinh có các năng lực, kĩ năng, kiến thức, lứa tuổi, hành vi, thái độ khác nhau đều đạt đến mục tiêu chung của học tập, giáo dục nhưng bằng các con đường khác nhau.
Sự huy động đa dạng và phong phú các phương pháp, hình thức dạy học sao cho sự học của học sinh được kích thích, được đa dạng để học sinh có thể làm việc, hoạt động, học tập theo lộ trình và phương pháp riêng đặc trưng cho bản thân nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiến thức, kĩ năng yêu cầu.
Phá vỡ hình thức dạy học trực diện, giáo dục với giáo viên là chủ đạo, cả lớp chỉ học một cách, cùng một bài học cho tất cả học sinh.
Tổ chức học tập, hoạt động, làm việc sao cho mỗi học sinh đều có tình huống học tập tối ưu.
Dạy học tích hợp: Tập trung trên việc học của học sinh; Quan tâm đến sự khác biệt của các học sinh; Tích hợp kiểm tra, đánh giá việc dạy và học; Điều chỉnh nội dung, quá trình và sản phẩm học tập theo định hướng tăng hiệu quả học tập cho học sinh và phát huy được ưu điểm vàphong cách học tập của từng cá nhân; Xây dựng không khí học tập mà ở đó học sinh làm việc cởi mở và tôn trọng mọi người. Hợp tác với học sinh để tối đa hóa hiệu suất học tập. Hướng đến tối ưu hóa sự tiến bộ và thành công của cá nhân học sinh trong học tập; Luôn mềm dẻo, động viên tích cực với học sinh.
Phương pháp bàn tay nặn bột: Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu
Những nguyên tắc cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tòi - nghiên cứu: Học sinh cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học; Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học; Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi học sinh nhiều kĩ năng. Một trong các kĩ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích; Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà học sinh còn cần phải biết lập luận, trao đổi với các học sinh khác, biết viết cho mình và cho người khác hiểu; Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu; Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.
Dạy học theo trạm: là cách thức tổ chức dạy học đặt dấu nhấn vào việc tổ chức nội dung dạy học thành từng nhiệm vụ nhận thức độc lập của các nhóm HS khác nhau. HS có thể thực hiện nhiệm vụ theo cặp, theo nhóm hoặc hoạt động cá nhân theo một thứ tự linh hoạt
Bước 1: Lựa chọn nội dung hệ thống trạm học tập
Bước 2: Xây dựng nội dung các trạm
Bước 3. Tổ chức dạy học theo trạm
Dạy học theo dự án: là một hình thức dạy học, trong đó HS dưới sự điều khiển và giúp đỡ của GV tự lực giải quyết một nhiệm vụ học tập mang tính phức hợp không chỉ về mặt lý thuyết mà đặc biệt về mặt thực hành, thông qua đó tạo ra các sản phẩm thực hành có thể giới thiệu, công bố được.
Học tập trải nghiệm : là một cách học thông qua làm, với quan niệm việc học là quá trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá, phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có. Kinh nghiệm đóng vai trò trung tâm trong quá trình học tập. Sự kết hợp đầy đủ các yếu tố trải nghiệm, tiếp thu, nhận thức và hành vi. Trải qua từ thế giới biểu tượng cụ thể đến kiến tạo trừu tượng tương tác giữa cá nhân và môi trường. Học tập được tiếp nhận tốt nhất trong quá trình, không phải ở kết quả. Học tập là quá trình liên lục khởi nguồn từ kinh nghiệm.
Vấn đề dạy học gắn với phát triển năng lực học sinh đã được đề cập nhiều và đã được áp dụng ở nhiều trường học, nhiều cơ sở giáo dục. Tại đơn vị em đang công tác vấn đề này cũng hết sức được quan tâm và có những thuận lợi sau:
+ Các hoạt động chuyên môn của nhà trường luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao từ phía lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo.
+ Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá được lãnh đạo nhà trường quan tâm chỉ đạo thực hiện một cách tích cực, có hệ thống, bám sát chủ trương đổi mới nền giáo dục của Đảng và nhà nước.
+ Đội ngũ giáo viên trẻ và có trình độ chuyên môn vững, được đào tạo trên chuẩn và đã được tham gia các lớp tập huấn về chuyên môn do Phòng giáo dục và đào tạo tổ chức hàng năm.
+ Các tổ chuyên môn tích cực trao đổi, thảo luận và soạn giảng, dự giờ rút kinh nghiệm cho đồng nghiệp.
+ Bản thân mỗi giáo viên luôn tích cực học tập, tìm hiểu và áp dụng các phương pháp kĩ thuật dạy học mới để áp dụng trong quá trình dạy học.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, em thấy việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy năng lực học sinh còn gặp phải nhiều khó khăn:
+ Về phía giáo viên: Việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực còn chưa mang lại hiệu quả cao. Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được tính dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng để hình thành quan điểm cá nhân.Việc đổi mới phương pháp dạy học cũng không được thực hiện một cách triệt để, vẫn còn nặng về phương pháp truyền thống truyền thụ một chiều. Để thực hiện phương pháp dạy học này người giáo viên cần mất nhiều thời gian hơn để chuẩn bị cho một tiết học nên việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh cũng gặp khó khăn.
+ Về phía học sinh: Học sinh chủ yếu là học sinh vùng nông thôn nên việc tiếp cận và tìm tòi những thông tin thời sự phục vụ cho bài học còn hạn chế. Một số học sinh chưa có phương pháp học tập phù hợp, chưa tích cực trong việc tìm tòi nghiên cứu bài học. Do đặc thù học sinh ở trường đa phần là học sinh người dân tộc Mông, Thái, Khơ Mú nên việc giao tiếp và khả năng nhận thức còn hạn chế, giao tiếp các em còn e dè, chưa tự tin, khả năng sử dụng vốn từ còn ít nên khi thảo luận nhóm các em còn chưa mạnh dạn… Một số học sinh chưa chăm học, thời gian dành cho việc học còn ít. Một số phụ huynh cũng chưa thực sự quan tâm đến việc học của con cái. Họ còn có suy nghĩ phó mặc cho nhà trường, “tất cả nhờ thầy”.
Nhiều nơi trong huyện chưa có điện, mạng, máy tính nên việc học sinh khai thác nguồn thông tin trên mạng để phục vụ cho bài học còn hạn chế.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy học chưa đáp ứng tốt cho nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
Từ chuyên đề: “Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh” em đã được bồi dưỡng thêm các kiến thức về các phương pháp dạy học tích cực để sử dụng thành thục, nhuần nhuyễn trong quá trình dạy học như các phương pháp dạy học nhóm, dạy học theo trạm, bàn tay nặn bột, các kĩ thuật dạy học tích cực… dạy học theo trải nghiệm sáng tạo, dạy học tích hợp, liên môn….. các phương pháp này sẽ kích thích được mọi học sinh tích cực làm việc đặc biệt là những học sinh yếu bởi chính những học sinh này sẽ được giáo viên và các bạn cùng nhóm để ý đến nhiều hơn. Khi phát triển được các năng lực trong quá trình học tập tức là học sinh thấy rõ vai trò vị trí của mình, từ đó sẽ biết nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ, biết hành động vì người khác và đó chính là một cách để hoàn thiện nhân cách người học sinh.
Để dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh có hiệu quả thì mỗi giáo viên phải tự học tự rèn luyện và phải học hỏi các đồng nghiệp khi tham gia dự giờ, trao đổi rút kinh nghiệm, tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn. Để khắc phục dần những khó khăn khi thực hiện việc dạy học theo định hướng năng lực học sinh theo em cần làm một số việc sau:
Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực bắt buộc cả giáo viên và học sinh phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, học sinh phải chủ động và tích cực hợp tác trong mọi hoạt động.
Yêu cầu giáo viên phải có sự thay đổi về quan điểm, về cách tiếp cận trong việc lựa chọn phương pháp dạy học, hình thức tổ chức lớp học cũng như thay đổi cách đánh giá học sinh – dạy học gắn với phát triển năng lực. Muốn làm được điều đó trước hết người giáo viên phải có sự thay đổi trong cách tiếp cận, phải giúp cho học sinh làm chủ quá trình học tập.
Kết hợp tốt các phương pháp dạy học truyền thống với các phương pháp dạy học tích cực. Xác định các phương pháp dạy học theo đặc thù bộ môn bên canh những phương pháp dạy học truyền thống cần chú ý các phương pháp dạy học tích cực như: phương pháp trực quan, phương pháp làm việc theo nhóm, phương pháp đóng vai…
Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và CNTT hợp lý hỗ trợ dạy học.
Để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động dạy và học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, em có một số đề xuất, kiến nghị sau:
- Sở Giáo dục và Đào tạo, lãnh đạo nhà trường tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Phòng giáo dục, nhà trường đầu tư, trang bị tốt hơn về cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
Như vậy qua khóa bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II em thấy đây là một khóa học bổ ích cho mỗi cán bộ giáo viên tham gia học tập.
Mỗi cán bộ giáo viên đều học tập và tích lũy cho mình những kiến thức quý báu từ các chuyên đề và áp dụng trong quản lý nhà trường và trong công tác dạy học để ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cho địa phương
ĐỀ KIỂM TRA PHẦN II
(Lớp Bồi dưỡng theo chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II)
Câu 1. Sinh hoạt chuyên môn theo NCBH là gì? Mục đích, ý nghĩa của sinh hoạt chuyên môn theo NCBH?
Câu 2. Sự khác nhau giữa sinh hoạt chuyên môn truyền thống và sinh hoạt chuyên môn theo NCBH
Câu 3. Nêu khó khăn gặp phải trong SHCM ở trường thầy, cô công tác.
BÀI LÀM
Câu 1. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là gì?
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học: Là hoạt động giáo viên cùng nhau học tập từ thực tế việc học của học sinh (HS). Ở đó, giáo viên cùng nhau thiết kế kế hoạch bài học, cùng dự giờ, quan sát, suy ngẫm và chia sẻ (tập trung chủ yếu vào việc học của HS) bài học. Đồng thời đưa ra những nhận xét về sự tác động của lời giảng, các câu hỏi, các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa ra… có ảnh hưởng đến việc học của HS. Trên cơ sở đó, giáo viên được chia sẻ, học tập lẫn nhau, rút kinh nghiệm và điều chỉnh nội dung, PPDH vào bài học hằng ngày một cách hiệu quả.
* Mục đích ý nghĩa của SHCM theo hướng NCBH
Đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình học tập, giáo viên quan tâm đến khả năng học tập của từng học sinh, đặt biệt những học sinh có khó khăn về học.
Tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ.
Nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Góp phần làm thay đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường: cải thiện mối quan hệ giữa Ban giám hiệu với giáo viên; giáo viên với giáo viên, giáo viên với học sinh, cán bộ quản lý/giáo viên/học sinh với các nhân viên trong nhà trường; giữa học sinh với học sinh. Tạo môi trường làm việc, dạy và học dân chủ, thân thiện cho tất cả mọi người.
Triết lí SHCM dựa trên nghiên cứu bài học:
– Đảm bảo cơ hội học tập cho từng học sinh;
– Đảm bảo cơ hội phát triển chuyên môn cho từng giáo viên;
– Xây dựng cộng đồng nhà trường để đổi mới nhà trường;
– Mỗi học sinh đến trường đều phải được học và học được;
– Giáo viên phải chấp nhận mọi em học sinh với đặc điểm riêng của HS.
Câu 2: Sự khác nhau giữa sinh hoạt chuyên môn truyền thống và sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học
SHCM truyền thống | SHCM theo NCBH |
---|---|
1. Mục đích – Đánh giá xếp loại giờ dạy theo tiêu chí từ các văn bản chỉ đạo của cấp trên. – Người dự tập trung quan sát các hoạt động của giáo để rút kinh nghiệm sau tiết dạy – Thống nhất cách dạy các dạng bài để tất cả giáo viên trong từng khối thực hiện. |
p> 1. Mục đích
– Không đánh giá xếp loại giờ dạy theo tiêu chí, quy định. – Người dự giờ tập trung phân tích các hoạt động của HS để rút kinh nghiệm. – Tạo cơ hội cho giáo phát triển năng lực chuyên môn, tiềm năng sáng tạo của mình |
2. Thiết kế bài dạy minh hoạ – Bài dạy minh hoạ được phân công cho một giáo viên thiết kế; được chuẩn bị, thiết kế theo đúng mẫu quy định. – Nội dung bài học được thiết kế theo sát nội dung giáo viên, SGK, không linh hoạt xem có phù hợp với từng đối tượng HS không. – Thiếu sự sáng tạo trong việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học. |
2. Thiết kế bài dạy minh hoạ – Bài dạy minh hoạ được các giáo viên trong tổ, nhóm thiết kế. Chủ động linh hoạt không phụ thuộc máy móc vào quy trình, các bước dạy học trong SGK, giáo viên – Các hoạt động trong thiết kế bài học cần đảm bảo được mục tiêu bài học, tạo cơ hội cho tất cả HS được tham gia bài học |
p> 3. Dạy minh hoạ, dự giờ
* Người dạy minh hoạ – Giáo dạy hết các nội dung kiến thức trong bài học, bất luận nội dung kiến thức đó có phù hợp với HS không. – Giáo viên áp đặt dạy học một chiều, máy móc: hỏi – đáp hoặc đọc – chép hoặc giải thích bằng lời. – Giáo viên thực hiện đúng thời gian dự định cho mỗi hoạt động. Câu hỏi đặt ra thường yêu cầu HS trả lời theo đúng đáp án dự kiến trong giáo án (mang tính trình diễn). * Người dự giờ – Thường ngồi ở cuối lớp học quan sát người dạy như thế nào, ít chú ý đến những biểu hiện thái độ, tâm lí, hoạt động của HS. |
p> 3. Dạy minh hoạ, dự giờ
* Người dạy minh hoạ – Có thể là một giáo tự nguyện hoặc một người được nhóm thiết kế lựa chọn. – Thay mặt nhóm thiết kế thể hiện các ý tưởng đã thiết kế trong bài học. – Quan tâm đến những khó khăn của HS. Kết quả giờ học là kết quả chung của cả nhóm. * Người dự giờ – Đứng ở vị trí thuận lợi để quan sát, ghi chép, sử dụng các kĩ thuật, chụp ảnh, quay phim… những hành vi, tâm lí, thái độ của HS để có dữ liệu phân tích việc học tập của HS. |
p> 4. Thảo luận giờ dạy minh hoạ
– Các ý kiến nhận xét sau giờ học nhằm mục đích đánh giá, xếp loại giáo viên. – Những ý kiến thảo luận, góp ý thường không đưa ra được giải pháp để cải thiện giờ dạy. Giáo viên dạy trở thành mục tiêu bị phân tích, mổ xẻ các thiếu sót. – Không khí các buổi SHCM nặng nề, căng thẳng, quan hệ giữa các giáo viên thiếu thân thiện. – Cuối buổi thảo luận người chủ trì tổng kết, thống nhất cách dạy chung cho các khối. |
p> 4. Thảo luận giờ dạy minh hoạ
– Người dạy chia sẻ mục tiêu bài học, những ý tưởng mới, những cảm nhận của mình qua giờ học. – Người dự đưa ra các ý kiến nhận xét, góp ý về giờ học theo tinh thần trao đổi, chia sẻ, lắng nghe mang tính xây dựng; tập trung vào phân tích các hoạt động của HS và tìm các ra nguyên nhân. – Không đánh giá, xếp loại người dạy mà coi đó là bài học chung để mỗi giáo viên tự rút kinh nghiệm. – Người chủ trì tôn trọng và lắng nghe tất cả ý kiến của giáo viên, không áp đặt ý kiến của mình hoặc của một nhóm người. Tóm tắt các vấn đề thảo luận và đưa ra các biện pháp hỗ trợ HS. |
5. Kết quả *Đối với HS – Kết quả học tập của HS ít được cải thiện. – Quan hệ giữa các HS trong giờ học thiếu thân thiện, có sự phân biệt giữa HSG với HS yếu kém *Đối với giáo viên – Các PPDH mà giáo viên sử dụng thường mang tính hình thức, không hiệu quả. Do dạy học một chiều nên giáo viên ít quan tâm đến HS . – Quan hệ giữa giáo viên và HS thiếu thân thiện, cởi mở. – Quan hệ giữa các giáo viên thiếu sự cảm thông, chia sẻ, luôn phủ nhận lẫn nhau. |
5. Kết quả *Đối với HS – Kết quả của HS được cải thiện. – HS tự tin hơn, tham gia tích cực vào các hoạt động học, không có học sinh nào bị “bỏ quên”. – Quan hệ giữa các học sinh trở nên thân thiện, gần gũi về khoảng cách kiến thức. *Đối với giáo viên – Chủ động sáng tạo, tìm ra các biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học. – Tự nhận ra hạn chế của bản thân để điều chỉnh kịp thời. – Quan tâm đến những khó khăn của HS, đặc biệt là HS yếu, kém. – Quan hệ giữa đồng nghiệp trở nên gần gũi, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau. |
* Đối với cán bộ quản lí – Cứng nhắc, theo đúng quy định chung. Không dám công nhận những ý tưởng mới, sáng tạo của giáo viên. – Quan hệ giữa cán bộ quản lí với giáo viên là quan hệ mệnh lệnh, xa cách, hành chính… |
*Đối với cán bộ quản lí – Đặt bài học lên hàng đầu, đánh giá sự linh hoạt sáng tạo của của từng giáo viên. – Có cơ hội bám sát chuyên môn, hiểu được nguyên nhân của những khó khăn trong quá trình dạy và học để có biện pháp hỗ trợ kịp thời. – Quan hệ giữa cán bộ quản lí và giáo viên gần gũi, gắn bó và chia sẻ. |
Câu 3: Nêu khó khăn gặp phải trong SHCM ở trường thầy, cô công tác
- Nội dung, chương trình hiện nay chưa theo định hướng phát triển năng lực học sinh, do đó giáo viên phải chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp, của trường.
- Trong cùng một lớp học trình độ của học sinh chưa đồng đều, số lượng học sinh đông dẫn đến việc tổ chức dạy thực nghiệm gặp nhiều khó khăn.
- Tổ chuyên môn chưa đồng bộ về chuyên môn đào tạo cũng như trình độ chuyên môn, giáo viên kiêm nhiệm nhiều chức vụ cùng một lúc, dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao.
- Về cơ sở vật chất: Thiết bị dạy học, dụng cụ thí nghiệm chưa đầy đủ, không đồng bộ.
- Giáo viên dạy phải chuẩn bị trước các đồ dùng dạy học, chủ động thay thế những đồ dùng thiếu, điều này làm ảnh hưởng đến thời gian nghiên cứu.
- Giáo viên chuẩn bị bài dạy mất nhiều thời gian nên không sẵn sàng hợp tác.
- Trong tiết dạy giáo viên không thể quan sát hết thái độ, hành động, sai sót từng HS nên giáo viên ngại dạy vì sợ sau mỗi tiết dạy bị tham gia góp ý, đánh giá sẽ hạ thấp uy tín bản thân. Nhiều giáo viên hoài nghi về tác dụng sinh hoạt chuyên môn mới này.
......, ngày...tháng...năm...
Người viết
- Đề thi lớp 1 (các môn học)
- Đề thi lớp 2 (các môn học)
- Đề thi lớp 3 (các môn học)
- Đề thi lớp 4 (các môn học)
- Đề thi lớp 5 (các môn học)
- Đề thi lớp 6 (các môn học)
- Đề thi lớp 7 (các môn học)
- Đề thi lớp 8 (các môn học)
- Đề thi lớp 9 (các môn học)
- Đề thi lớp 10 (các môn học)
- Đề thi lớp 11 (các môn học)
- Đề thi lớp 12 (các môn học)
- Giáo án lớp 1 (các môn học)
- Giáo án lớp 2 (các môn học)
- Giáo án lớp 3 (các môn học)
- Giáo án lớp 4 (các môn học)
- Giáo án lớp 5 (các môn học)
- Giáo án lớp 6 (các môn học)
- Giáo án lớp 7 (các môn học)
- Giáo án lớp 8 (các môn học)
- Giáo án lớp 9 (các môn học)
- Giáo án lớp 10 (các môn học)
- Giáo án lớp 11 (các môn học)
- Giáo án lớp 12 (các môn học)