Top 18 bài Nghị luận văn học, dàn ý Viết bài làm văn số 5 lớp 11 (hay, ngắn gọn)
Phần dưới tổng hợp trên 18 bài văn mẫu phân tích, dàn ý Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học Ngữ văn lớp 11 hay nhất giúp các sĩ tử học tốt môn Văn lớp 11 và đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, bài thi môn Văn.
Dàn ý Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam (3 mẫu)
Cảm nhận về nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (dàn ý, 30 mẫu)
Dàn ý Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (4 mẫu)
Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (dàn ý, 30 mẫu)
Dàn ý Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia (3 mẫu)
Phân tích Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia (dàn ý, 30 mẫu)
Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" (dàn ý, 30 mẫu)
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng nhân vật Chí Phèo (dàn ý, 30 mẫu)
Dàn ý Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên
I.Mở bài
- Giới thiệu tác giả tác phẩm.
- Giới thiệu nhân vật.
II.Thân bài
1. Hoàn cảnh sống của Liên
- Liên từng sống với gia đình mình ở Hà Nội.
- Vì cha mất việc, gia đình Liên chuyển về nơi phố huyện nghèo, cuộc sông tăm tối mịt mù.
- Tối nào Liên cùng với em cũng ngồi trong quá đến tối mịt để được nhìn thấy chuyến tàu từ Hà Nội về.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của Liên
a. Tâm hồn tinh tế
- Liên cảm nhận được những biến động tinh tế nhất của sự đổi thay của đất trời
- Trước cảnh ngày tàn: nghe thấy tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve; quan sát thấy “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.”. Cảnh ngày tàn cũng làm tâm hồn Liên gợi lên những “buồn man mác”. Đó là bởi Liên là cô bé nhạy cảm, tinh tế trước biến đổi của đất trời.
- Liên gắn bó với mảnh đất phố huyện nghèo này đến mức quen với “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi” của phiên chợ tàn.
b. Tấm lòng giàu tình yêu thương
- Thương cho nững kiếp sống cơ cực, tù túng, mù mịt nơi phố huyện nghèo
- Liên “động lòng thương” khi thấy lũ trẻ con nhà nghèo đi “nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre” còn sót lại của phiên chợ.
- Liên thương cái cảnh sống “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng, bên cạnh cái mốc gạch” của chị Tí. Vất vả vậy mà cũng chả kiếm được bao nhiêu nhưng vẫn cứ đều đặn dọn hàng.
- Cái nhìn dõi theo của Liên khi nhìn bà cụ Thi hơi điên “đi lần vào bóng tối”, khi thấy cảnh đói rét của gia đình nhà bác Sẩm.
- “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.”: Liên cảm nhận sâu sắc sự bế tắc, tù đọng của cuộc sống nơi đây. Họ ngồi trong bóng tối để tìm thấy tia sáng tương lai, họ bị giam nơi ao tù nước đọng mà không thể làm gì mà chỉ có thể ngóng đợi. Song, câu văn cũng thể hiện phần nào niềm tin của Liên vào tương lai, vào ánh sáng sẽ xóa tan không khí u tối nơi phố huyện nghèo.
c. Luôn biết hướng đến ánh sáng và tương lai
- Dẫu sống trong cái tối, từ không gian mịt mù cho đến kiếp sống cơ cực không lối thoát, Liên vẫn luôn hướng tâm hồn mình đến ánh sáng, đến tương lai, luôn kiếm tìm ánh sáng dù là nhỏ nhất.
- Từ nguồn sáng nhỏ nhất như những “quầng sáng”, “một chấm lửa”, “hột sáng”, “vùng sáng” cũng trở nên thật đặc biệt trong tâm hồn nhạy cảm của Liên.
- Dù muộn thế nào thì An và Liên cũng đều cố gang thức đợi chuyến tàu cuối từ Hà Nội về.
- Con tàu đến mang theo “một làn khói bừng sáng trắng”, “tiếng hành khách ồn ào khe khẽ”, “các toa đèn sáng trưng”, “những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Con tàu dường như đối lập hẳn với không gian nơi phố huyện, đối lập của ánh sáng và bóng tối, của sự tĩnh lặng và âm thanh ồn ào, của “những viên đá một bên sáng một bên tối” với “đồng và kền lấp lánh”.
- Con tàu là hiện thân của quá khứ hạnh phúc của Liên khi gia đình còn ở Hà Nội đối lập hoàn toàn so với cuộc sống nơi phố huyện nghèo ở hiện tại.
- Con tàu đến là mang theo hương vị quá khứ tươi đẹp cho chị em Liên. Ngóng đợi con tàu là mơ ước của Liên về sự tươi sáng của tương lai.
- Dù sống cảnh tối tăm mịt mù, Liên vẫn luôn tìm kiếm một niềm vui. Đó chính là chuyến tàu ấy, chuyến tàu của quá khứ nhưng cũng là mơ ước tương lai vẫn sáng lấp lánh như đôi mắt Liên khi dõi theo chuyến tàu dần đi mất. Đó là sự thức tỉnh của cá nhân trong cảnh sống nghèo đói u tối.
3. Đánh giá
- Ngôn ngữ bình dị, thanh nhẹ, trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc. Ngòi bút Thạch Lam có thể hiểu và cảm nhân được từng biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn và ánh mắt của cô bé Liên. Dường như ánh mắt nhà văn cũng đang biến đổi theo từng ánh nhìn của Liên vậy.
III.Kết bài
- Nêu cảm nhận của bản thân về nhân vật.
Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên
Thạch Lam, cây bút văn xuôi lãng mạn nổi tiếng của văn học Việt Nam. Tác phẩm của ông không đi sâu vào những sự kiện, biến cố mang tính chất gay cấn, cũng không đi vào cái lãng mạn tiểu tư sản đang là thời thượng lúc bấy giờ. Thạch Lam tìm chất lãng mạn trong những thứ bình dị, đời thường nhất. Hai đứa trẻ là tác phẩm thành công nhất của ông, một tác phẩm đượm buồn, bàng bạc chất thơ được nhìn nhận dưới con mắt của cô gái mới lớn – Liên. Liên là cô gái có tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước cuộc sống và thiên nhiên.
Liên vốn sinh sống ở Hà Nội, cô từng được hưởng cuộc sống tràn ngập ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc. Nhưng do biến cố của gia đình cô cùng mọi người chuyển về nơi phố huyện nghèo nàn, hiu hắt. Liên đã quen dần với cuộc sống nơi đây, yêu mùi đất ngai ngái, yêu cả những ngõ tối sâu thẳm nhưng hơn hết trong Liên vẫn bừng lên khao khát về một cuộc sống khác, cuộc sống của mơ ước, hi vọng.
Liên là một cô gái có tấm lòng nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Nhìn thấy cảnh những đứa trẻ con nhà khó khăn nhặt rác, cô bé thương cảm cho số phận của chúng song không thể làm gì bởi chính gia đình Liên cũng nghèo, bản thân hai chị em đang phải phụ giúp gia đình kiếm sống bằng cửa hàng tạp hóa nhỏ. Thấy gia cảnh chị Tí cô cũng ái ngại thay cho họ. Họ ngày đi mò cua bắt ốc, tối lại bán hàng nước mà cuộc sống chẳng khấm khá hơn. Liên ân cần hỏi han và trong lời nói chứa đựng sự xót xa, thương yêu và ái ngại cho gia cảnh của chị Tí. Đối với bà cụ Thi điên, nghe tiếng cười từ xa, như một lẽ tự nhiên, Liên quay vào rót một chén rượu rồi đưa cho cụ, ánh mắt dõi theo cho đến khi cụ đi khuất hẳn. Liên là một cô gái nhân hậu, biết yêu thương, cảm thông cho số phận và nỗi bất hạnh của những người xung quanh. Đôi mắt yêu thương đó cũng chính là tình cảm mà nhà văn Thạch Lam dành cho những người lao động nghèo khổ.
Không chỉ vậy, Liên còn là cô gái tinh tế, nhạy cảm trước sự biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc của ngày tàn. Tác phẩm mở đầu bằng một buổi chiều êm ả như nhung và thoảng qua gió mát, gió ngoài đồng đưa vào cùng tiếng ếch nhái kêu ran. Khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, thanh bình mà đượm buồn hiu quạnh. Tâm hồn Liên nâng niu, cảm nhận từng chuyển động của cuộc sống xung quanh, là mùi ẩm mốc còn lại sau phiên chợ “một mùi âm ẩm bốc lên trộn lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá”. Đó là mùi của sự thân thuộc, gắn bó với quê hương. Trong khoảnh khắc ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy cái thuốc sơn đen, nỗi buồn của cảnh vật thấm dần vào tâm hồn nhạy cảm của một cô bé mới lớn.
Khi màn đêm buông xuống, Liên thích thú ngắm nhìn bầu trời với hàng ngàn vạn ánh sao lung linh, lấp lánh trên bầu trời. Và tâm hồn ngây thơ, trong sáng ấy tưởng tượng ra dòng sông ngân hà với hai con vịt đi theo chân ông thần nông, thế giới cổ tích của tuổi thơ ùa về trong tâm hồn chị. Những cánh hoa bàng mỏng manh khẽ rơi trên vai cũng được tâm hồn nhạy cảm của Liên cảm biết hết. Không chỉ vậy, ẩn sâu trong tâm hồn Liên, cô luôn đi tìm những nguồn sáng khác nhau xung quanh cuộc sống của mình, đó chỉ là những khe sáng, vệt sáng, quầng sáng, dù nhỏ bé, yếu ớt không thể đi cái tối tắm ngập đầy hết cả không gian nhưng nó cũng cho thấy khát vọng đổi đời mãnh liệt của nhân vật.
Vậy tại sao khao khát đổi đời lại thể hiện ở nhân vật Liên mạnh mẽ đến vậy. Bởi trước hết Liên còn là một đứa bé, cô đang ở độ tuổi mười bốn, mười lăm, không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn, cô có những nhận biết, cảm nhận thế giới xung quanh rất rõ ràng. Liên lại còn từng được sống trong cuộc sống hạnh phúc, cuộc sống “mơ ước” nên hơn ai hết cô hiểu vị ngọt của cuộc sống đầy ánh sáng ấy. Nếu như những người dân nơi đây cũng khao khát được đổi đời, nhưng chưa bao họ được hưởng thụ cuộc sống đó nên khao khát ấy vẫn mơ hồ, không xác định. Bởi vậy, khao khát mơ ước đổi đời đặt vào nhân vật Liên là hoàn toàn hợp lí, Liên còn trẻ và còn nhiều cơ hội để thay đổi cuộc sống, để biến mơ ước thành hiện thực. Khao khát đổi đời thoát khỏi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc cũng cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Thạch Lam đối với con người: thương cảm cho số phận của những kiếp người sống mòn nơi phố huyện. Nâng niu và trân trọng mơ ước của Liên và những con người nơi đây.
Và khao khát đổi đời đó được tập trung thể hiện rõ nhất trong cảnh chờ đoàn tàu nơi phố huyện đi qua. Chị em Liên thức đợi tàu không phải để bán thêm một vài món hàng như lời mẹ dặn, mà thức để hưởng thụ đôi chút khoảnh khắc lung linh, rực rỡ ánh sáng của một cuộc sống khác thoáng qua phút chốc. Đây có lẽ không phải đêm đầu tiên hai chị em Liên thức đợi tàu, mà rất nhiều đêm kể từ khi chuyển về nơi phố huyện sinh sống, nhưng khao khát đợi tàu vẫn không thôi cháy bỏng, đặc biệt là với Liên. Cô không ngủ, mà chờ bằng được đoàn tàu đi qua. Tiếng gọi em không chỉ đơn thuần là tiếng gọi mà nó còn như một tiếng reo vui, hân hoan khi đoàn tàu sắp đi qua. Liên đợi tàu từ khi đèn ghi xuất hiện cho đến khi nó đi khuất chỉ còn một chấm đỏ ở sau đuôi và chìm vào tắm tôi. Bằng con mắt quan sát tinh tường và tâm hồn nhạy cảm, ngay lập tức Liên đã nhận ra đoàn tàu hôm nay hình như kém sáng hơn. Nếu không phải ngày nào cũng khao khát ngắm nghía dõi theo thì sao Liên có thể nhận ra sự thay đổi ấy khi đoàn tàu chỉ vụt qua phố huyện trong vài giây ngắn ngủi.
Đối với Liên đoàn tàu không chỉ đơn thuần là một sự vật lướt nhanh qua phố huyện, mà bản thân đoàn tàu đó còn mang rất nhiều ý nghĩa. Đoàn tàu là hình ảnh của quá khứ xa xôi, đẹp đẽ, của Hà Nội xa xăm, đó là thế giới thần tiên mà cô đã từng được sống. Đoàn tàu còn là biểu tượng của thế giới hạnh phúc mà không chỉ Liên mà tất cả người dân phố huyện nơi đây đều khao khát. Đoàn tàu là mơ ước đổi đời mãnh liệt, tha thiết của con người nơi đây đặc biệt là Liên. Với hình ảnh đoàn toàn, Thạch lam cũng gửi gắm nhiều tình cảm, xót thương cho những đứa trẻ, người dân phố huyện. Ông trân trọng khát vọng đổi đời chân chính của họ. Đồng thời cũng gửi gắm thông điệp con người cần phải vượt thoát khỏi thực tại nghèo nàn, tù túng để vươn đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Nhân vật Liên được tác giả miêu tả chủ yếu ở phương diện nội tâm. Với lời văn giàu chất thơ, đi sâu miêu tả những rung động tinh tế của nhân vật trước thiên nhiên và những khao khát mãnh liệt được đổi đời của nhân vật.
Nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam không chỉ là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thương những người xung quanh, mà còn là một cô gái có khao khát sống, đổi đời mãnh liệt. Tâm hồn trẻ thơ đó luôn hướng đến một cuộc sống đẹp hơn, đáng sống hơn. Qua nhân vật này tác giả cũng gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Dàn ý Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục
I. Mở bài
- Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam ông có rất nhiều những tác phẩm hay, nổi tiếng trong đó tác phẩm để lại nhiều tên tuổi nhất phải kể đến đó là tác phẩm Chữ Người Tử Tù.
II. Thân bài
- Huấn Cao là nhân vật điển hình trong tác phẩm, đây là nhân vật được tác giả xây dựng với những đặc điểm điển hình, nổi bật lên tính cách và cách xây dựng nhân vật độc đáo của tác giả.
- Huấn Cao là nhân vật điển hình không chỉ được tác giả miêu tả là nhân vật có nhiều nét tài hoa và phẩm chất cao đẹp mà ông còn có tấm lòng thiên lương trong sáng
- Sự tài hoa đó được biểu hiện qua tài viết chữ đẹp của nhân vật, Huấn Cao được viết nét chữ đều đặn, chữ viết như phượng hóa rồng bay.
- Chữ viết được rất nhiều người ước có trong nhà, và một trong những nhân vật đó là Viên Quản Ngục.
- Ông có thái độ ung dung, tự tại, coi thường cái chết, đứng trước cái chết ông vẫn ung dung, thể hiện thái độ coi thường cái chết của Viên Quản Ngục.
- Hơn nữa khi đứng trước nguy cơ bị xử bắn ông vẫn ông dung thể hiện thái độ của mình trước thế lực phong kiến thối nát.
- Ông còn thể hiện được thái độ ung dung, và căm ghét kẻ thù.
- Tuy nhiên khi đứng trước người có tấm lòng yêu cái đẹp ông thể hiện thái độ thiên lương, một tấm lòng biệt nhưỡng những con người yêu cái đẹp.
- Ông từng thốt lên: “ suýt nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ” đây là câu nói thể hiện sự coi trọng của ông đối với Viên Quản Ngục.
- Ông không chỉ là người có tài năng mà ông còn là người biết yêu cái đẹp, biết trân trọng những con người yêu cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp.
- Ông đã thể hiện được rõ quan điểm của mình trước những con người biết quý cái đẹp, mong ước thực hiện và thể hiện được cái đẹp chân chính.
- Ông có tấm lòng thiên lương trong sáng, biết yêu quý và có những lời khen, khuyên với Viên Quản Ngục.
III. Kết Luận
-Qua cách xây dựng nhân vật, Huấn Cao đã đem đến cho người đọc những tính cách điển hình của nhân vật Huấn Cao, ngoài việc xây dựng ngoại hình ông còn miêu tả tính cách tiêu biểu.
Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục
Chữ người tử tù là truyện ngắn in trong tập Vang bóng một thời, xuất bản năm 1940. Đây là tác phẩm xuất sắc thể hiện rõ nhất quan niệm của Nguyễn Tuân về Cái Đẹp. Huấn Cao, nhân vật chính của truyện là một con người siêu việt, một nhân cách trong sáng. Qua sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn phong phú, cao quý của con người tài hoa ấy.
Ngay từ đầu tác phẩm, qua cuộc trao đổi giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã giới thiệu Huấn Cao như một nhân vật đặc biệt, ông là người văn võ kiêm toàn, có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp nổi tiếng khắp tỉnh Sơn. Huấn Cao bị vua quan coi là kẻ cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu "quân phiến loạn" chống lại triều đình.
Vừa có khí phách ngang tàng, vừa tài hoa thông tuệ, Huấn Cao quả là một tử tù đặc biệt. Có lẽ do cảm phục tài năng và nghĩa khí của Huấn Cao qua lời đồn đại nên viên quản ngục đã dành cho ông thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày, viên quản ngục sai thầy thơ lại mang rượu thịt xuống buồng giam tử tù cho Huấn Cao. Trước sự biệt đãi đó, thái độ Huấn Cao có những biến đổi khá phức tạp và chính sự thay đổi đó cho chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn và tính cách của ông.
Những ngày đầu trong ngục tối, thái độ Huấn Cao hoàn toàn dửng dưng và khinh bạc trước sự săn sóc quá đầy đủ ấy: Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép: Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây lạnh lắm... Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm. Đến khi viên quản ngục đích thân xuống buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng Huấn Cao là người có nghĩa khí và xin ông cho biết có cần gì thêm thì cứ nói để lo cho chu tất thì Huấn Cao đáp lại một cách trịch thượng: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đó là thái độ bất cần của một người anh hùng khí phách ngang tàng, không khuất phục trước cường quyền: Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này.
Nhưng không như ông Huấn Cao nghĩ, viên quản ngục khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu: "Xin lĩnh ý". Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.
Nhiều khi, ông bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của viên quản ngục và cho rằng hẳn là viên quản ngục muốn dò đến những điều bí mật của ta, nhưng không phải, vì ông đã khai hết bên ti Niết cả rồi. Ngoài thái độ khinh bạc, lạnh lùng, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục.
Giữa chốn ngục tù tăm tối, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân ví như thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Có lẽ, sự dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục đã làm Huấn Cao động lòng.
Sự hiểu lâm và thái độ khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục mất hẳn trong một tình huống đầy kịch tính: Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông vào Kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi. Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: "Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi". Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.
Sau khi nghe thầy thơ lại hớt hải bày tỏ ước nguyện tha thiết của quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi hẳn thái độ. Lúc này, Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò viên quản ngục và đồng thời nhận ra rằng viên quản ngục là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: "Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ. Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Ông cảm động thực sự trước viên quản ngục có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức thú chơi chữ đẹp và trân trọng người sáng tạo ra Cái Đẹp. Trong câu nói của Huấn Cao với thầy thơ lại có chút ân hận và tự trách về sự hiểu lầm trước đó.
Ngay đêm hôm ấy, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã diễn ra ở chốn ngục tù. Đó là cảnh Huấn Cao cho chữ. Cái ẩm ướt, tăm tối của buồng giam tương phản với vẻ trang trọng, thanh cao của những nét chữ đẹp tươi do Huấn Cao viết ra và sự thăng hoa từ tâm hồn của hai kẻ tri âm. Cũng bởi yêu mến tính cách của viên quản ngục nên Huấn Cao đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành và thấm thía: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi... Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã... Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lần này là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong đời Huấn Cao cho chữ. Ông tự biết giá trị những chữ do mình viết ra là rất quý. Ba lần trước, ông cho chữ ba người bạn thân. Lần này, ông cho chữ kẻ mà trước đây chỉ ít phút, ông căm ghét và khinh miệt. Vậy điều gì đã xảy ra trong tâm hồn ông, khiến ông đi đến quyết định cho chữ quý? Lòng tự trọng của Huấn Cao đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, hơn nữa là sự kính trọng đã nâng viên quản ngục lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Chính điều đó làm cho Huấn Cao cảm động sâu sắc.
Cảnh ông Huấn Cao cho chữ vừa lạ, vừa đẹp như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có: Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:
Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".
Lúc trước, ba người chưa hiểu nhau, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, họ gặp nhau ở một điểm chung là tấm lòng tha thiết yêu mến và trân trọng Cái Đẹp – Cái Đẹp chữ viết đi đôi với Cái Đẹp tâm hồn.
Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với con người và tính cách của ông. Tại sao trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lại thản nhiên đến lạnh lùng? Có lẽ viên quản ngục là người hiểu ông Huấn hơn cả nên không lấy làm oán thù thái độ của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng còn chẳng biết là có ai nữa, huống chỉ cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Bản chất ngang tàng, cứng cỏi của Huấn Cao uy vũ và tiền bạc không sao mua chuộc, lung lạc nổi thì sá gì sự đãi ngộ ít ỏi chốn lao tù! Huấn Cao giữ mình bởi ông chưa hiểu gì về viên quản ngục, ông cảnh giác đề phòng những âm mưu, mánh khóe thâm độc mà ông từng biết. Hơn nữa, giữa Huấn Cao và viên quản ngục có một khoảng cách rất lớn. Đó là khoảng cách giữa một kẻ tử tù và một kẻ đại diện cho cường quyền, bạo lực. Sâu xa hơn là khoảng cách giữa người tài cao đức trọng và kẻ tài thiếu đức sơ trong bậc thang giá trị. Trong hoàn cảnh ấy, thái độ cao ngạo, khinh bạc ban đầu của Huấn Cao là hợp lí. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục nổi giận mà ngược lại, càng khâm phục và kính nể Huấn Cao hơn.
Nếu như Huấn Cao không thay đổi thái độ đối với viên quản ngục thì đến cuối truyện, chắc hẳn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao không trọn vẹn. Nhưng Nguyễn Tuân đã không làm như vậy mà ông muốn Huấn Cao trở thành biểu tượng của Cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Khi biết được ước nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao đã vô cùng cảm kích. Sự chuyển biến trong thái độ của Huấn Cao cho chúng ta thấy rõ hơn phẩm chất cao thượng của ông. Ngoài tài năng và khí phách hơn người, Huấn Cao còn là một nhân cách lớn, biết nhìn nhận và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, dù vẻ đẹp ấy khuất lấp ở chốn không dành cho nó. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao là điều dễ hiểu, vì ông đã nhận ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài, sự dịu dàng và biết trọng người ngay của viên quản ngục. Mặt khác, Huấn Cao vốn có thiên lương trong sáng, có cái tâm tha thiết với con người, với cuộc đời cho nên sự gặp gỡ, đồng cảm giữa ông và viên quản ngục là điều tất yếu.
Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm. Qua đó, chúng ta hiểu sâu hơn bản chất cao quý của Huấn Cao. Ngoài tài năng, khí phách, Huấn Cao còn có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý. Chiều hướng tích cực trong cách nhìn nhận, đánh giá của Huấn Cao cho thấy viên quản ngục cũng là người đáng nể trọng. Đúng như nhận xét của Nguyễn Tuân, viên quản ngục là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ý thức bảo vệ, gìn giữ Cái Đẹp như một báu vật ở đời của viên quản ngục quả là hiếm hoi trong xã hội phong kiến suy tàn thời ấy.
Thái độ của Huấn Cao trước sau có khác: trước cao ngạo, lạnh nhạt, sau thân mật, ân cần nhưng vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng của một bậc chính nhân quân tử đối với nét đẹp trong phẩm cách con người, dù là nhỏ nhất, dù ở hoàn cảnh trớ trêu nhất. Thiên truyện chấm dứt bằng lời nói rưng rưng nghẹn ngào nhiều ý nghĩa của viên quản ngục.
Nguyễn Tuân đã thành công khi đặt hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục cạnh nhau. Hai nhân vật này bổ sung tính cách và soi sáng cho nhau để tôn vinh giá trị trường tồn của Cái Đẹp trong tác phẩm.
Với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đạt được ước nguyện khi tìm về và trân trọng ca ngợi những vẻ đẹp tinh thần truyền thống của dân tộc. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc, trong đó hình tượng Huấn Cao tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng mà con người tôn thờ và luôn khát khao vươn tới.
Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân có ngụ ý sâu xa gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong. Đồng thời, ông cũng kín đáo lồng vào đó nỗi đau chung cho cả dân tộc đang trong vòng nô lệ, tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời đều bị lũ thực dân, đế quốc chà đạp, vùi dập một cách bạo tàn.
Dàn ý Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nam Cao
- Giới thiệu về Chí Phèo và quá trình tha hóa của Chí Phèo
II. Thân bài: nghị luận về quá trình tha hóa của Chí Phèo
1. Chí Phèo, một người nông dân lương thiện
- Là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi bên đường
- Từ nhỏ sống với Bá Kiến, Chí phèo rất hiền lành và chịu khó
- Con người có lòng tự trọng
- Ước mơ nhỏ nhoi, một hạnh phúc đơn giản
2. Chí Phèo, một tên lưu manh, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại
- Chí Phèo bị Bá Kiến đẩy vào tù của thực dân
- Nhà tù đã làm cho sự hiền lành, chịu khó trong Chí Phèo trở nên thoái hóa, trở thành một con người khác
3. Chí Phèo, sinh ra là người nhưng số phận không thể làm người
- Chí Phèo gặp Thị Nở, người làm thay đổi suy nghĩ trong cuộc đời hắn
- Chí Phèo muốn có một cuộc sống bình dị, một hạnh phúc nhỏ nhoi nhưng giờ đã quá muộn
- Chí Phèo đã bị những lời của cô Thị Nở làm tổn thương
4. Đánh giá quá trình tha hoá của Chí Phèo
- Có nguyên nhân rõ ràng
- Có sự logic và diễn ra đúng hiện thực
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận của em về quá trình tha hóa của Chí Phèo
Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo
Nam Cao một nhà văn lớn của dân tộc đã để lại bao tác phẩm hay, mang cả giá trị nội dung và giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông là người có tấm lòng đôn hậu chan chứa tình yêu thương và gắn bó với quê hương. Vì vậy, ta có thể thấy cảm hứng chủ đạo của ông qua nhiều tác phẩm đó là hình tượng người nông dân. Một trong những tác phẩm để lại ấn tượng nhất trong lòng người đọc đó là "Chí Phèo", tác phẩm đã khái quát lại một thời kỳ đầy biến động của đất nước ở những vùng nông thôn nghèo, nơi có những con người thấp cổ bé họng đã bị đày đến đường cùng. Ta có thể thấy rõ điều đó qua quá trình tha hóa của nhân vật chính Chí Phèo của tác phẩm cùng tên.
Tác phẩm "Chí Phèo" được viết vào năm 1936, thuộc đề tài nông dân ở thời kì trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đã được đổi tên rất nhiều lần để phù hợp với nội dung. Đến năm 1946, khi truyện ngắn này được in trong "Luống cày" với tên gọi "Chí Phèo" đã thể hiện khái quát nhất và đầy đủ nhất tư tưởng của tác phẩm. Chí Phèo là nhân vật chính của câu chuyện. Hắn có một số phận bất hạnh bị bỏ rơi từ khi còn bé tại một lò gạch cũ, rồi được người dân trong làng Vũ Đại truyền tay nhau nuôi dưỡng. Đến khi trưởng thành, hắn chăm chỉ lao động làm ăn nhưng bị buộc tội oan và đày đi ở tù. Sau khi ra tù, những năm tháng ở nhà tù thực dân phong kiến đã biến Chí từ một con người lương thiện thành một tên hách dịch, rồi làm tay sai cho Bá Kiến. Cuộc sống của Chí bừng sáng hơn khi gặp được Thị Nở, và được thức tỉnh làm người, nhưng rồi bị cự tuyệt bởi Thị Nở khi Thị Nở nghe lời bà cô của mình. Chí tức giận, rồi tìm Bá Kiến trả thù, giết Bá Kiến rồi tự sát.
Nam Cao đã diễn tả quá trình tha hóa của Chí Phèo đầy chua xót bởi từ một con người thiện lương lại trở thành một con quỷ dữ của cả làng Vũ Đại. Sự xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện đã rất độc đáo - tiếng chửi của Chí Phèo. Hắn say rượu, hắn chửi tất cả mọi người "chửi đời", "chửi trời", "chửi cả làng Vũ Đại", "chửi cả đứa nào đẻ ra hắn". Khi say rượu, có lẽ người ta sẽ nghĩ rằng người đó không được tỉnh táo, nên không ai chấp với hắn, người ta kệ hắn, hay người ta cũng quen với việc đó rồi, mọi người cứ cho rằng hắn không chửi mình. Nhưng vì sao Chí lại chửi? Tất cả đều có nguyên do của nó, càng say rượu thì Chí càng nhận ra số phận của mình, làm người mà không có một đến ai công nhận. Hắn đau khổ tức giận khi nhận ra được hoàn cảnh của mình, không ai trò chuyện với hắn, đáp lại hắn chỉ là những tiếng sủa của những con chó. Chí là một con người cô độc, sống như không là một con người trên chính mảnh đất mình lớn lên.
Mở màn bằng tiếng chửi của Chí, chắc cũng có người cho rằng hắn từ bé đã là người xấu, được dạy dỗ không đàng hoàng. Nhưng không, Nam Cao đã tiết lộ rằng trước khi đi ở tù hắn là một con người tốt. Hắn có một tuổi thơ đặc biệt, không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, bị bỏ rơi trong cái lò gạch hoang, rồi được người dân trong làng Vũ Đại nuôi dưỡng. Khi lớn lên, Chí làm canh điền cho Bá Kiến, Chí bỏ sức lao động của mình ra để nuôi bản thân, tính tình hắn tốt lắm "hiền như đất". Hắn còn rất giàu lòng tự trọng, hắn ghê tởm hành động của mình, cảm thấy nhục nhã khi bị bà ba nhà Bá Kiến bắt làm những việc "không chính đáng". Hắn cũng là một con người có ước mơ, một ước mơ bình dị như bao người khác "có một gia đình nhỏ", "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", "chung lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Khi còn là chàng trai thanh niên tuổi 20, Chí vẫn được coi là một con người, có tấm lòng lương thiện, có hoài bão ước mơ, nhưng chế độ thực dân phong kiến thối nát đã đẩy một con người tốt ấy đến bờ vực - bị cự tuyệt làm người.
Sau bảy, tám năm ra tù, con người hiền lành như đất ấy đâu còn, Chí tha hóa và trở thành con quỷ dữ trên hai phương diện cả ngoại hình lẫn tính cách. Về ngoại hình, hắn mang dáng vẻ của một tên lưu manh "cái đầu trọc lốc", "răng cạo trắng hớn", cái mặt thì lúc nào cũng "câng câng", hai con mắt "gườm gườm" trông gớm chết. Trang phục thì bắt chước bọn thực dân, mặc quần nái đen, áo tây vàng, ngực thì phanh ra, trên đó còn chạm trổ những hình thù quái dị... Không chỉ ngoại hình, nhân tính của hắn cũng biến chất. Hắn hung hăng liều lĩnh, hành động lời nói như của một tên cố cùng liều thân. Hắn chỉ suốt ngày làm bạn với rượu chè, say khướt, rồi đến nhà Bá Kiến mà chửi. Thay vì đi làm lao động, hắn lại chìm đắm trong những cơn say, phá hoại gia đình lương thiện khác. Hắn chịu làm tay sai cho Bá Kiến, bị hắn lợi dụng để đổi lấy những cơn say hết ngày.
Chí đã trở thành một tên quỷ dữ của làng Vũ Đại lúc nào không hay, tất cả mọi người trong làng sợ hắn, tránh xa hắn. Một cuộc đời thật vô nghĩa khi được sinh ra làm người mà lại không được công nhận làm người. Hắn cũng nhận thức được lỗi lầm của bản thân, tìm ra được nguyên nhân đã gây ra bi kịch cho cuộc đời mình. Bá Kiến và nhà tù thực dân phong kiến đã đẩy Chí đến bước đường cùng. Hắn đã trả thù Bá Kiến và tự sát, hắn tìm đến cái chết cũng như là để giải thoát cho chính mình. Từ nhân vật Chí, Nam Cao đã dựng lên một hình tượng mang ý nghĩa điển hình, tiêu biểu cho một bộ phận cố nông bị cướp đi cả về nhân hình lẫn nhân tính.
Nam Cao đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo bằng nghệ thuật khắc họa nhân vật, tính cách thật độc đáo, mỗi nhân vật đều mang một tính cách riêng và đều được bộc lộ rõ nét, tạo ấn tượng mạnh với người đọc. Không chỉ vậy, lối kể chuyện của Nam Cao còn gây bất ngờ khi thì hiện tại, quá khứ, rồi tương lai. Giọng văn ông tỉnh táo sắc lạnh, chua chát nhưng có lúc đằm thắm, yêu thương kết hợp với ngôn ngữ sống động tinh tế vô cùng gần gũi, bình dị với lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Chí Phèo - một tác phẩm văn học hiện thực sống mãi với thời gian. Tác phẩm đã tố cáo một xã hội thực dân phong kiến tàn bạo cướp đi của người nông dân cả nhân hình lẫn nhân tính. Đồng thời, qua đó, Nam Cao còn muốn gửi tới người đọc, hãy trân trọng, quan tâm đến những người xung quanh mình, phát hiện ra những bản chất tốt đẹp trong con người, để rồi tất cả mọi người sẽ có một cuộc đời ý nghĩa và hạnh phúc của một con người.
Dàn ý Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
I. Mở bài
- Đôi nét về tác giả Vũ Trọng Phụng và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia: Một cây bút hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu của văn học nước ta trước Cách mạng tháng 8. Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết hiện thực thành công của ông
- Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã được xây dựng thành công bởi nghệ thuật trào phúng đặc sắc
II. Thân bài
1. Nghệ thuật trào phúng là gì?
- Trào phúng : nghệ thuật gây ra tiếng cười mang ý nghĩa phê phán xã hội.
- Để gây được tiếng cười trào phúng, điều quan trọng nhất là tạo được tình huống mâu thuẫn và tổ chức truyện làm nổi bật mâu thuẫn đó
2. Nghệ thuật trào phúng trong đoạn trích
a. Mâu thuẫn trào phúng được xây dựng thành công
- Thể hiện ngay trong tựa đề:
+ “Tang gia”: nhà có đám, đáng ra với hoàn cảnh đó, không khí phải tràn ngập nhiều buồn tiếc
+ “Hạnh phúc”: Cảm xúc khi gặp chuyện nhiều niềm vui, đây là cảm xúc đối lập hẳn với hoàn cảnh “tang gia”
⇒ nhan đề chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng cười chua chát, kích thích trí tò mò của người đọc:
- Thể hiện trong niềm vui của những người trong gia đình và ngoài gia đình:
+ Nhà chuyện buồn nhưng mỗi nhân vật trong gia đình đều không giấu nổi niềm vui bởi mình sẽ đạt được mục đích khác nhau
+ Những người ngoài gia đình: Mừng vui vì được khoe mẽ, chim chuột, được xem đám ma to…
- Mâu thuẫn trào phúng xuyên suốt cảnh đám ma: một đám ma rất to, rất đông, được tiến hành rất trọng thể, đúng là một đám ma gương mẫu. Nhưng kỳ thực lại giống một đám hội, đám rước.
b. Nhân vật trào phúng
- Cố Hồng: vui vì được diễn trò già yếu trước mọi người, mơ màng nghĩ mình được mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc mếu máo ⇒ con người háo danh bề ngoài, không hề tiếc thương gì trước cái chết của chính người sinh ra mình
- Ông Văn Minh: thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lý thuyết viễn vông nữa.
- Bà Văn Minh: mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo tạo nhất.
- Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục “ngây thơ” để chứng tỏ mình hãy còn trinh tiết, cô cũng buồn nhưng là “buồn lãng mạn” vì không thấy người tình của mình
- Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu không có dịp dùng đến
- Ông Phán: Sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị.
- Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh giá uy tín lại càng to hơn.
- Cảnh sát Min Đơ và Min Toa:“giữa lúc không có ai đáng bị phạt…đương buồn rầu…thì sung sướng cực điểm”.
- Bạn bè cụ cố Hồng: những kẻ vừa háo danh, vừa háo sắc, họ chia buồn để khoe khoang các loại râu ria cùng những huân huy chương
- Hàng phố: đám ma đi đến đâu huyên náo đến đấy, cả phố nhốn nháo khoe đám ma to, thiên hạ chỉ chu ý vào những kiểu quần áo tang...
⇒ Bức tranh trào phúng chân thực mang đậm tính hài hước, nhân vật trào phúng thể hiện rõ nét, ai cũng tìm thấy niềm vui trong đám tang đáng lẽ ra nên buồn thương
c. Cảnh tượng trào phúng
- Cảnh đưa đám:
+ Chậm chạp và nhốn nháo
+ Các loại kèn ta, Tây , Tàu lố lăng
+ Người đi đám nói chuyện bàn tán
+ Điệp khúc “Đám cứ đi”
- Cảnh hạ huyệt:
+ Cậu Tú bắt mọi người tạo dáng chụp ảnh
+ Cụ cố Hồng: tỏ ra chí hiếu nhưng lại lộ sự giả dối
+ Phán mọc sừng khóc oặt người đi nhưng lại giúi vào tay Xuân tờ 5 đồng rồi lại khóc oặt người đi
⇒ Càng thể hiện rõ sự “trào phúng” của đoạn trích
III. Kết bài
- Khẳng định nghệ thuật trờ phúng đã được thể hiện thành công trong đoạn trích
- Nghệ thuật trào phúng góp phần phơi bày những hợm hĩnh, lố lăng, bịp bợm của xã hội tượng lưu.
Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Từ lâu nhiều người đã kể Số đỏ của Vũ Trọng Phụng vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại trào phúng trong văn xuôi Việt Nam. Với Số đỏ, người đọc được cười từ đầu đến cuối, cười một cách hả hê. Nhưng cũng với Số đỏ người đọc phải phẫn uất mà kêu lên: Trời! Cái xã hội gì mà giả dối, bịp bợm đến thế, bất nhân, bạc ác đến thế!
Đọc Số đỏ, người ta nghĩ, đây đúng là đất cho ngón võ sở trường của Vũ Trọng Phụng. Trong tác phẩm này, ngón võ ấy đã được sử dụng hết sức lợi hại trong một chương, chương XV, có nhan đề là "Hạnh phúc của một tang gia". Ngón võ ấy là ngón gì, ấy chính là nghệ thuật tạo mâu thuẫn. Thật ra không phải Vũ Trọng Phụng tạo ra mâu thuẫn. Mâu thuẫn vốn tự có trong bản chất xã hội, và nhà văn họ Vũ với cái nhìn sắc như dao của mình, với cái tài của một "ông vua phóng sự" bẩm sinh đã nhận ra nó, chỉ nó ra, nâng nó lên cho cả toàn dân thiên hạ thấy để cười, để căm ghét và khinh bỉ nó.
Cách đặt nhan đề chương sách của Vũ Trọng Phụng đã lạ lùng, đầy mâu thuẫn: Hạnh phúc của một tang gia. Tang gia mà cũng hạnh phúc à? Tang gia mà cũng có thể hạnh phúc được ư? Cái chết của người thân gia đình có thể đem lại cho người ta hạnh phúc được sao? Nếu chỉ đọc nhan đề, người ta có thể nghĩ là nhà văn đã bịa ra một cách ác ý bằng sự kết hợp của hai khái niệm hoàn toàn đối lập ấy. Nhưng không, đó không phải là ác ý của nhà văn, đó là sự thật của đời sống, sự thật của xã hội mà nhà văn muốn mổ xẻ ra để mọi người nhìn thấy nó tận mắt.
Mọi sự bắt đầu từ cái chết của một ông già. Ông già ấy là cha, là ông của "một gia đình đông đảo và đáng kính" của một xã hội "thượng lưu". Cả cái gia đình ấy đã "nhao lên mỗi người một cách". Nhưng nhao lên vì đau khổ, vì đau đớn, vì lo lắng... trước cái chết của người thân chăng? Không phải, chúng đã nhao lên vì.... hạnh phúc! "Cái chết kia đã làm cho nhiều người sướng lắm'': Câu văn tưởng chừng như ngược đời kia của Vũ Trọng Phụng đã thâu tóm tất cả mọi thứ "thế thái nhân tình".
Nhận định ấy không hề là một sự bịa đặt cho vui của nhà văn. Sự thật rất rành rành cụ thể. Ông Phán mọc sừng sau cái chết của ông nội vợ, bỗng thấy cái "sự mọc sừng" của mình tăng giá lên vài nghìn đồng. Cụ cố Hồng sung sướng "mơ màng đến cái lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu" để được người ta ngợi khen "một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,...". Còn ông Văn Minh, cháu đích tôn, nhà cải cách xã hội? Ông ta sung sướng tột đỉnh bởi vì với cái chết của ông nội, ông ta thấy rằng tờ di chúc đã được thực hiện, nghĩa là cái ao ước cho ông nội mình chết đi để được chia của đã trở thành sự thật. Bà Văn Minh sung sướng theo đúng cách của một phụ nữ tân thời, bà ta nhận ra từ cái chết của ông nội chồng một dịp may hiếm có để có thể mặc "trang phục tân thời'', "đồ xô gai tân thời", "những sáng tạo mốt mới" của tiệm may Âu hoá!
Tâm địa của lũ người kia tưởng đến thế là tởm và lố bịch. Nhưng chưa hết, đến đây, Vũ Trọng Phụng còn đẩy lên một tầng nữa. Bởi bọn con cháu bất hiếu nhất trần đời đó còn muốn tỏ ra mình là kẻ có hiếu, có thảo cũng nhất trần đời nữa kia. Thế là dưới ngòi bút của nhà văn trào phúng, sự bịp bợm cao nhất, đáng phỉ nhổ nhất cũng bộc lộ ra. Những kẻ mong cho ông già mau chết đã tổ chức một đám ma thật to để bày tỏ lòng hiếu thảo, tiếc thương đối với người đã chết! Chính vì thế ngòi bút của Vũ Trọng Phụng tập trung sức mạnh như có thần trong phần thứ hai của chương sách - phần tả cảnh đám ma.
Trước hết nhà văn tả cô Tuyết, một cô gái hư hỏng nhưng chỉ "hư hỏng một nửa", một thiếu nữ đang rất tiêu biểu cho xã hội "tân thời ngày ấy". Tuyết mặc bộ trang phục nửa kín nửa hở, với nét mặt đó, "vẻ buồn lãng mạn" vì nhớ nhân tình chứ không phải vì thương người chết, đã gây một hiệu quả lạ lùng. Các vị tai to mặt lớn đi đưa đám chỉ nhìn vào vẻ khêu gợi của Tuyết để mà cảm động, cứ như thực sự cảm động trước nỗi buồn tang tóc vậy.
Đám ma to thật, to đến mức "có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng". Người ta đã lợi dụng đám ma đến mức cao nhất để khoe giàu, khoe sang và để khoe lòng hiếu thảo giả vờ của mình.
Nếu như mong muốn của tất cả đám con của người chết kia là trong đám ma này đưa sự giả dối, bịp bợm đồng thời là sự tàn nhẫn bất nhân, đểu giả của mình lên đến mức hoàn toàn thì quả thực chúng đã đạt được một cách trọn vẹn, xuất sắc.
Nhưng chưa hết. Dưới mắt Vũ Trọng Phụng, cái lũ người giả dối không chỉ bao gồm một nhóm nhỏ ấy. Chúng đông đảo lắm. Chúng là toàn xã hội văn minh Âu hóa. Bắt đầu là hai nhà đại diện cảnh sát, nghĩa là đại diện của nhà nước, thầy Min Đơ và thầy Min Toa. Tác giả đã nói lên vẻ mừng rỡ hí hửng của hai thầy khi được chủ nhà đám ma thuê làm người giữ trật tự. Lí do của sự mừng rỡ, duy nhất chỉ là vì họ đang không có việc gì để làm và đang "buồn như nhà buôn sắp vỡ nợ". Thứ đến là các vị tai to mặt lớn, lớp' "hoa" của giới thượng lưu xã hội, mặt mũi sang trọng; người đeo đầy đủ các thứ "hội rinh". Trong đám ma này, sự cảm động của họ không phải là đã nhớ đến người đã khuất, cũng không phải vì tiếng kèn đưa ma não ruột bi ai, mà chỉ vì... được ngắm không mất tiền làn da trắng thập thò trong làn áo mỏng của cô Tuyết.
Sự xuất hiện của hai tên đại bịp là Xuân Tóc Đỏ và sư ông Tăng Phú trong dịp này lại khiến người ta cảm động đến cực điểm. Vì sao? Vì với sáu chiếc xe kéo và những vòng hoa đồ sộ hai kẻ này đã làm cho đám ma thêm long trọng, to tát. Đến bà cụ cố Hồng, có lẽ là người lương thiện nhất trong cái gia đình vừa hư hỏng vừa đại bịp ấy, cũng cảm động đến hớt hải lên.
Những người đi đưa đám thật đông đảo. Bằng điệp khúc "Đám cứ đi..." được nhắc lại đến mấy lần, tác giả như muốn nói, đám ma thật là to, thật là đông, thiên hạ tha hồ mà chiêm ngưỡng để thấy rõ sự to tát của nó. Nhưng cứ thử tìm xem trong đám người đông đảo ấy có ai là người đang thực sự "đi đưa đám", nghĩa là có chút tiếc thương đối với người chết mà họ đang đưa tiễn? Không có ai cả, tất cả mọi người, đàn ông cũng như đàn bà, già cũng như trẻ, tuy đang giữ một vẻ nghiêm chỉnh, nhưng đều đang nói một điều gì đó, nghĩ một điều gì đó không dính dáng đến người chết và đám ma cả. Trai thanh gái lịch thì chim nhau, bình phẩm, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau... nhưng tất cả đều "mang vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa đám ma".
Thật là nhẫn tâm, thật là vô liêm sỉ. Ta sẽ nghĩ như thế. Nhưng, với Vũ Trọng Phụng có nghe được những lời mà họ nói với nhau mới thấy sự vô liêm sỉ còn trơ tráo đến mức nào mà nhà văn đã đưa ra một số lời ấy.
"Đám cứ đi..." có nghĩa là sự vô liêm sỉ ấy không hề khép lại, nó còn kéo dài.
Đến lúc đám tang không "cứ đi" nữa mà dừng lại để hạ huyệt, Vũ Trọng Phụng còn hiến cho người đọc hai chi tiết đặc sắc, đẩy cảnh đưa đám này lên đến đỉnh điểm. Chi tiết thứ nhất là cảnh câu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm những động tác, giữ những tư thế đau buồn để cho cậu ta... chụp ảnh. Chi tiết thứ hai là ông Phán mọc sừng, cái kẻ giả dối và vô liêm sỉ nhất trong cái gia đình này đã khóc đến tưởng chừng ngất đi. Tuy vậy, giữa lúc oằn người khóc lóc, chính ông ta đã giúi vào tay Xuân Tóc Đỏ món tiền năm đồng vì đã có công gọi ông ta là "người chồng mọc sừng" (chính là cái công gián tiếp khiến cho ông già chết). Thật là những kịch sĩ thượng hạng của những tấn trò đời. Hai chi tiết ấy đóng lại một cách trọn vẹn và sắc sảo chương nói về sự giả dối của con người.
Những điều Vũ Trọng Phụng viết trong trang sách là thật ư? Nhưng những điều ấy vô lí lắm mà và hình như đều có thật cả. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng đúng là sắc như dao. Đằng sau những lời nói như đùa, những cảnh trào phúng cười ra nước mắt, sự thật của đời sống cứ hiện ra lồ lộ mà trên nó nổi lên hai điều lớn nhất: Sự tàn nhẫn và sự dối trá.
Dàn ý Nêu ý kiến của mình về quan niệm về câu "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều"
1. Mở bài
- Giới thiệu nguyên văn câu nói:
" Đàn ông chớ kể Phan, Trần
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều"
- Một quan niệm cổ hủ của xã hội phong kiến thời xưa
- Phân tích nét đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều để phản biện nhận định sai lầm đó.
2. Thân bài
* Quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến theo các nhà nho xưa:
- Lễ giáo phong kiến của xã hội bấy giờ chèn ép, trói buộc quyền con người nhất là phụ nữ.
- Đàn bà phải giữ " tam cương ngũ thường", "công dung ngôn hạnh"...
* Theo các nhà nho Thúy Vân, Thúy Kiều có những hành động ứng xử không phù hợp với lễ giáo phong kiến
- Tự do yêu đương, thề non hẹn biển, một mình đi khuya, tự đánh ước nhân duyên là điều tối kị trong xã hội phong kiến...
- Là gái lầu xanh...
- Không được lấy nhiều chồng, coi trọng trinh tiết
........... Quan niệm trên đúng, nhưng phiến diện, không cảm thông thân phận của Thúy Vân, Thúy Kiều.
* Nhận định quan điểm đó:
- Đó là cách đánh giá sai lầm, bảo thủ, chỉ nhìn nhận sự việc, con người một cách phiến diện.
- Phân tích nhân cách của Thúy Kiều, Thúy Vân:
+ Là một người con gái tài sắc vẹn toàn, đức hạnh...
+ Lòng hiếu thảo....(dẫn chứng thơ....).
+ Tấm lòng thủy chung....( dẫn chứng thơ phân tích làm nổi bật lên nét đẹp tâm hồn...).
+ Tình yêu cao thượng, hai lần vô lầu xanh nhưng vẫn thủy chung vẹn tình với Kim Trọng nên buộc tội nàng không đoan chính là sai.....
+ Ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình dù sống trong chốn bùn nhơ vì nghịch cảnh số phận...
- Cuộc đời lưu lạc, đau khổ của nàng là do xã hội phong kiến tàn bạo tạo ra.
- Nàng cố gượng dậy nhưng không được....
* Nhận xét khi đọc tác phẩm:
- Biết được sự tàn bạo của xã hội phong kiến thời bấy giờ, cướp đi quyền sống của con người nhất là đối với phụ nữ.
- Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.
- Đạo giáo và nho giáo đã áp cái nhìn phiến diện vào nhân vật, phê phán, chê bai....
- Một xã hội không cho phụ nữ quyền được sống hạnh phúc.
- Nhân cách Thúy Vân, Thúy Kiều vẫn sáng ngời dù đã trải qua biết bao bể dâu.
3. Kết bài
- Khẳng định lại quan điểm trên là sai lầm, phiến diện.
- Thúy Vân, Thúy Kiều là nạn nhân của xã hội phong kiến tàn bạo, cướp đi quyền sống của con người.
- Khẳng định lại tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du, nhân cách của nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều.
Nêu ý kiến của mình về quan niệm về câu "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều"
Ông cha ta xưa kia có câu nói:
Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.
Câu ý nói ấy mang ý nghĩa cấm đoán phận nữ nhi trong xã hội cũ không được đọc những câu chuyện tình lãng mạn, đàn ông không được đọc những câu chuyện tình ủy mị, nhu nhược, ảnh hưởng tới chí nam nhi. Đó là một quan niệm lạc hậu, không công bằng, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của con người.
Truyện Phan Trần là câu chuyện nói về chuyện chàng Phan Sinh yêu nàng Trần Liên, vì nhớ nhung nàng mà sinh ốm rồi tự vẫn. Đó là tư tưởng không thể chấp nhận đối với chí nam nhi lúc bấy giờ. Truyện Kiều là câu chuyện tình lãng mạn, nhưng đầy bi kịch.
Trong xã hội cũ, tư tưởng xã hội chịu ảnh hưởng đạo Khổng nên phụ nữ không mấy được tự do và hạnh phúc theo ý mình. Người phụ nữ lúc bấy giờ sống phụ thuộc vào cha, vào chồng, vào con. Người phụ nữ nào đi quá giới hạn của "Tam Tòng, Tứ Đức" thì cuộc đời của họ coi như mất nhiều giá trị trước gia đình và xã hội. Tức là suốt cuộc đời họ bị chi phối bởi người đàn ông, tại gia tòng phụ người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha, Xuất giá tòng phu, phải theo chồng, Phu tử tòng tử, khi chồng chết phải theo con. Người phụ nữ trong xã hội xưa phải hội tụ cả bốn đức tính như: Công (biết ngành nghề và khôn khéo trong mọi việc làm), Dung (sắc diện khoan thai, hòa nhã), Ngôn (lời nói nhẹ nhàng, lễ độ), Hạnh (tính nết nhu mì, ngoan hiền, đạo đức).
Tư tưởng để đánh giá về một người phụ nữ trong xã hội cũ là như vậy, qua khắt khe, quá tàn nhẫn. Nhưng trong truyện Kiều, nàng Kiều đã tự quyết định tình yêu khi chưa được sự cho phép của cha mẹ, tự sang nhà Kim Trọng, bán mình vào chốn lầu xanh làm gái thanh lâu, lấy nhiều người đàn ông… Đó là những hành động không thể chấp nhận được trong xã hội lúc bấy giờ. Nếu người phụ nữ đọc được họ sẽ bị ảnh hưởng, có tư tưởng không tốt, không phù hợp với lễ giáo mà ông cha đã đưa ra. Tất cả những người đọc truyện Kiều đều phải cho rằng, nàng Kiều là người đáng khinh, nhơ nhớp và mạt hạng:
"Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm,
Bán mình trong bấy nhiêu năm,
Dễ đem chữ hiếu mà lầm được ai,
Nghĩ đời mà ngán cho đời."
Cũng có thể hiểu câu nói ấy theo hai nghĩa, là đàn bà thì không được đọc Truyện Kiều, còn đã như Thúy Kiều Thúy Vân thì không được gọi là đàn bà. Trong xã hội hiện nay, con người đã có những quan điểm thoáng hơn, vì vậy nàng Kiều là người bất hạnh, đáng thương chứ không đáng trách.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Phận nữ nhi mà giữa đêm khuya đi sang nhà một người nam nhi, hành động bị cho là hành động sai trái và hư hỏng, khó chấp nhận. Nhưng đọc kĩ chúng ta mới hiểu được Kiều sang nhà Kim Trọng vào lúc đêm khuya chỉ để thề ước, không có bất kì sự lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Chuyện đính ước thề nguyền là điều tất yếu của một tình yêu trong sáng.
Có nhiều ý kiến cho rằng, hành động bán mình chuộc cha của Kiểu thê hiện giá trị đạo đức, luân lý bị suy đồi, có nhiều cách để kiếm ra tiền chuộc cha mà lại chọn cách hạ sách nhất. Nhưng thực tế, không phải nàng Kiều muốn bán mình chuộc cha mà chính cái xã hội thối nát kia đã dồn nàng vào bước đường cùng, nàng thấy nhục nhã ê chề nhưng vẫn nhắm mắt làm liều vì chữ hiếu. Nàng đã làm tròn bổn phận của một người con đúng với quan niệm của lễ giáo phong kiến, nhưng lại bị chính cái lễ giáo ấy chê trách.
Nếu gia đình nàng không bị hãm hại, người đến mua Kiều về làm vợ không bán Kiều thì cuộc đời nàng đâu đến nỗi nổi chìm như vậy. Nàng đã cố gắng thoát ra khỏi vũng bùn nhơ nhớp, nhưng nàng càng ngóc đầu lên, lại càng bị chìm sâu hơn.
Hiểu hết được những khổ cực mà Kiều gánh chịu ta mới thấy khâm phục, trân trọng. Nàng không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn là người có nhân cách sống cao quý và một tấm lòng trong sáng, thanh cao, giàu phẩm hạnh. Khắc họa hình ảnh nhân vật Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng nhân đạo đối với những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa.
Tính chất nhân đạo và tính chất vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện rất sâu sắc. Chính tính chất vượt thời đại này gây ra sự hiểu biết chưa thấu đáo mà đã vội vàng kết luận của một bộ phận người xưa vốn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người.
Quan niệm "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều" chỉ là một quan niệm cổ xưa và sai lầm. Chúng ta không nên đánh giá thấp về Kiều mà hãy mở tấm lòng cảm thông đối với nàng.
Dàn ý Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo
I. Mở bài
- Giới thiệu hình tượng những con người khổ đau, cô độc trong văn học: Xuất hiện không ít trong lịch sử văn chương Việt Nam: Chị Dậu, lão Hạc, …
- Nhưng có thể, Chí Phèo trong một tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta ngỡ ngàng nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ nhất cho nỗi cùng cực, bất hạnh của kiếp người.
II. Thân bài
1. Chí Phèo bản chất là một người nông dân lương thiện
- Chí Phèo vốn là một người nông dân với nhiều phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính
+ Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho nhỏ, chồn cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương thiện.
+ Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.
⇒ Chí Phèo có đủ điều kiện để sống cuộc sống yên bình như bao người khác, quãng đời lương thiện của Chí kéo dài trong khoảng 20 năm đầu
- Sau này, khi gặp Thị Nở, sự lương thiện lại một lần nữa quay lại trong Chí:
+ Nhận biết được âm thanh cuộc sống: Tiếng chim hót, tiếng cười nói của người đi chợ
+ Mong muốn được làm hòa với xã hội, mong muốn có một mái ấm gia đình với Thị Nở ⇒ ước muốn giản dị năm xưa quay trở lại với Chí Phèo
⇒ Bản chất con người Chí luôn là một người lương thiện
2. Chí Phèo là một người cô độc
- Cô độc ngay từ khi sinh ra: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dúi cũng không có
- Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm vơi hành động đã khiến người ta kho chịu: “Hắn vừa đi vừa chửi…” nhưng đằng sau tiếng chửi đó, Chí Phèo hiện lên là người cô độc
- Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên:
+ Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi
+ Đằng sau đó thấy Chí Phèo là nạn nhân ra sức cựa quậy, mong muốn được coi là người bình thường
- Khi thức tỉnh sau khi bị ốm, Chí Phèo cảm nhận và hình dung ra tuổi già của mình với ốm đau và cô độc và nhấn mạnh cô độc là điều đáng sợ hơn cả ⇒ Bản thân Chí Phèo luôn là người cô độc nên mới cô độc đến thế
3. Chí Phèo là một người nông dân phải chịu số phận với nhiều bi kịch
• Bi kịch bị tha hóa: Sau khi bị Bá Kiến đẩy vào tù, sau khi ra tù:
+ Hình dạng: “Cái đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai con mắt gườm gườm” ⇒ Chí Phèo đánh mất nhân hình.
+ Nhân tính: du côn, du đãng, triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
+ Quá trình tha hóa của Chí Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Bá Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, là điển hình cho hình ảnh người nông dân bị đè nén đến cùng cực
• Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
- Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí:
+ Đâm chết Bá Kiến là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
+ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người
⇒ Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy vào bước đường cùng
III. Kết bài
- Khái quát những nét tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo.
- Khẳng định dù thời gian có trôi qua, hình tượng nhân vật Chí Phèo và tác phẩm cùng tên sẽ vẫn luôn sống mãi trong lòng độc giả: “Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách, vẫn ngày ngày vật lộn giữa trần ai” (Nguyễn Đức Mậu).
Cảm nhận của anh chị về hình tượng nhân vật Chí Phèo
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích, dàn ý tác Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học hay khác:
Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Bài văn mẫu 1)
- Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam (Bài văn mẫu 2)
- 30+ Cảm nhận của anh chị về nhân vật Liên trong tác phẩm Hai đứa trẻ
Phân tích thái độ nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (Bài văn mẫu 1)
Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (Bài văn mẫu 3)
Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong Chữ người tử tù (Bài văn mẫu 4)
- 30+ Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục
- 30+ Phân tích quá trình bị tha hóa của nhân vật Chí Phèo
Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia (Bài văn mẫu 1)
Phân tích nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia (Bài văn mẫu 2)
- 30+ Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:
- Văn mẫu: Hầu trời (Tản Đà)
- Văn mẫu: Vội vàng (Xuân Diệu)
- Văn mẫu: Tràng Giang (Huy Cận)
- Văn mẫu: Viết bài làm văn số 6: Nghị luận xã hội
- Văn mẫu: Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử)
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Lớp 11 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT
- Lớp 11 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 11 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 11 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 11 - CTST
- Giải sgk Hóa học 11 - CTST
- Giải sgk Sinh học 11 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 11 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 11 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 11 - CTST
- Lớp 11 - Cánh diều
- Soạn văn 11 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 11 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 11 - Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 11 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 11 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 11 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 11 - Cánh diều