Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ (điểm cao)



Tổng hợp bài văn Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Bài giảng: Đây thôn Vĩ Dạ - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 1

   Mấy ai dã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

    "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

    Đợi gió đông về để lả lơi…"

            (Bẽn lẽn)

    "Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ

    Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu".

            (Hãy nhập hồn em)

    "Bông nguyệt leo song sờ sẫm gối

    Gió thu lọt cửa cọ mài chăn".

            (Đêm không ngủ)

   Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng... Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Với 28 tuổi đời (1912 - 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử.

   "Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong "Tập thơ Điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu - tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

   Câu đầu của khổ thơ thứ nhất "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

    "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền".

   Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.

   Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trổ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hoà, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc "xanh như ngọc" ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Nói về màu xanh ngọc bích, Xuân Diệu (1938) cũng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" gọi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là nét vẽ độc đáo đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

    "Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

    Nghe ra ý vị và thơ ngây".

            (Mùa xuân chín)

   Hai câu thơ ba, bốn trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc..., mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

   Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ Hương giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát nam ai, nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

   Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu thơ năm, sáu là bức tranh tả gió, mây dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp laỵ, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa... như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:

    "Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".

   Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành "sông trăng". Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con thuyền nằm ngủ dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

    "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?".

   Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay " thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong "Đây thôn Vĩ Dạ" là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, mộng mơ và thoáng buồn. Ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thìa một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.

   Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương - Da thơm là phấn, má hường là son..". Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?

    "Mơ khách đường xa, khách đường xa,

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?".

   "Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có..." các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.

   Cũng cần nói một đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả bốn lần chữ "ơi" xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: ''Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" - "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" - "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con ngưòi xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ ảo cùng sương khói?

   Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,... bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.

   "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hổn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong "Đây thôn Vĩ Dạ" vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:

    "Xin chào Huế một lần anh đến

    Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

    Em rất thực mà nắng thì mờ ảo

    Xin đừng lầm em với cố đô".

            (Tạm biệt)

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài:

- Hàn Mặc Tử là nhà thơ có phong cách độc đáo, chịu ảnh hưởng sâu sắc của bệnh tật và số phận nghiệt ngã.

- Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là tiếng lòng của nhà thơ trong nỗi cô đơn, khát khao yêu thương.

II. Thân bài:

1. Khổ 1: Ký ức về thôn Vĩ – nơi của tình yêu và khao khát trở về:

- Câu hỏi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” gợi nhắc một quá khứ đẹp đẽ.

- Cảnh vật thôn Vĩ hiện lên trong ánh nắng ban mai, dịu dàng và tràn đầy sức sống.

- Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” vừa tạo nét thơ mộng, vừa gợi sự xa cách, thấp thoáng bóng dáng con người nhưng không rõ ràng.

2. Khổ 2: Hiện thực xa cách, nỗi cô đơn bao trùm:

- “Gió theo lối gió, mây đường mây” – hình ảnh chia lìa, gợi sự bất lực, nỗi cô đơn và khoảng cách giữa người với người.

- “Dòng nước buồn thiu” – thiên nhiên cũng mang tâm trạng buồn bã như lòng thi nhân.

- “Có chở trăng về kịp tối nay?” – trăng tượng trưng cho mộng tưởng, nhưng cũng đầy bất trắc, thể hiện khát khao yêu thương.

3. Khổ 3: Khắc khoải giữa hiện thực và giấc mơ:

- “Mơ khách đường xa” – hình ảnh khách đường xa gợi lên sự xa xôi, cách biệt.

- “Sương khói mờ nhân ảnh” – tất cả trở nên mơ hồ, xa vời, tình yêu cũng không còn rõ nét.

- “Ai biết tình ai có đậm đà” – câu hỏi thể hiện sự hoài nghi, nỗi đau của nhà thơ khi tình yêu trở nên mong manh.

III. Kết bài;

- Bài thơ thể hiện rõ tâm trạng cô đơn, tiếc nuối của Hàn Mặc Tử, phản ánh nỗi đau và khao khát được yêu thương của một con người đứng giữa ranh giới sự sống và cái chết.

- Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp trữ tình và đầy ám ảnh trong phong cách thơ của ông.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có hồn thơ độc đáo và giàu cảm xúc trong phong trào Thơ mới. Dù cuộc đời ngắn ngủi và đầy đau khổ, ông vẫn dành tình yêu mãnh liệt cho thiên nhiên, cuộc sống và con người. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là một bức tranh thơ mộng về cảnh sắc xứ Huế mà còn là những rung động chân thành của nhà thơ trước tình yêu và cuộc đời.

                                    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu thơ mở đầu mang giọng điệu như một lời trách móc nhẹ nhàng, vừa như một lời mời gọi tha thiết. Câu hỏi ấy không chỉ đánh thức nỗi nhớ về thôn Vĩ mà còn khơi gợi những cảm xúc sâu kín trong lòng tác giả. Thôn Vĩ hiện lên trong tâm trí nhà thơ với vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi:

                                    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

                                    Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.

                                    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Hình ảnh “nắng mới lên” không chỉ đơn thuần là ánh sáng buổi sớm mà còn biểu trưng cho một sức sống tràn trề, một vẻ đẹp tươi tắn của thiên nhiên. Ánh nắng ấy chiếu rọi lên những hàng cau, làm cho thôn Vĩ thêm phần rực rỡ. Đặc biệt, câu thơ “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” với cách dùng từ cảm thán đã thể hiện sự ngỡ ngàng, say mê của tác giả trước vẻ đẹp xanh mướt của khu vườn. Đó là một vẻ đẹp tinh khiết, đầy sức sống, như một miền ký ức trong trẻo mà nhà thơ luôn khao khát trở về.

Hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” lại mang một nét vẽ đầy ẩn ý. Có thể đó là khuôn mặt phúc hậu của người con gái Huế thấp thoáng sau tán lá trúc, vừa kín đáo vừa duyên dáng. Hoặc cũng có thể, hình ảnh ấy tượng trưng cho sự ngăn cách mong manh giữa tác giả và thế giới bên ngoài. Dù cách hiểu nào, câu thơ vẫn toát lên vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm của con người thôn Vĩ.

Nếu như khổ thơ đầu vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thơ mộng thì khổ thơ thứ hai lại chất chứa nỗi buồn man mác:

                                    “Gió theo lối gió, mây đường mây,

                                    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...”

Hình ảnh gió và mây vốn dĩ đi cùng nhau, nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử lại chia đôi lối, mỗi thứ một phương. Đây có thể là một ẩn dụ cho sự chia ly, xa cách trong tình cảm của tác giả. Dòng nước buồn bã lặng lờ trôi, hoa bắp khẽ lay trong gió, tất cả tạo nên một không gian cô đơn, lặng lẽ, như chính tâm trạng của thi nhân.

Đặc biệt, hình ảnh con thuyền và vầng trăng trong câu thơ sau mang đậm chất lãng mạn nhưng cũng đầy xót xa:

                                    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

                                    Có chở trăng về kịp tối nay?”

Con thuyền trên dòng sông trăng gợi lên một thế giới mộng ảo, huyền diệu. Nhưng câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” lại nhuốm màu tiếc nuối. Phải chăng, nhà thơ đang lo sợ rằng những điều đẹp đẽ của cuộc đời sẽ mãi mãi rời xa mình? Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không chỉ là thiên nhiên, mà còn là biểu tượng cho tình yêu, cho khát vọng của ông về một cuộc sống tràn đầy ánh sáng và yêu thương.

Khổ thơ cuối cùng đưa ta vào một thế giới mờ ảo, nơi ranh giới giữa thực và mộng dần trở nên mong manh:

                                    “Mơ khách đường xa, khách đường xa,

                                    Áo em trắng quá nhìn không ra...

                                    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

                                    Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hình ảnh “khách đường xa” gợi lên một nỗi nhớ khôn nguôi về một bóng hình xa vời, một tình yêu không thể chạm tới. “Áo em trắng quá nhìn không ra” có thể hiểu theo hai cách: đó là màu áo trắng tinh khôi, nhưng cũng có thể là sự xa cách, nhạt nhòa của hình ảnh người thương trong ký ức nhà thơ. Không gian xung quanh trở nên hư ảo, chìm trong “sương khói”, làm cho mọi thứ càng thêm xa vời, mơ hồ.

Câu thơ cuối cùng “Ai biết tình ai có đậm đà?” vang lên như một lời tự vấn. Đó là nỗi băn khoăn, là niềm hoài nghi về tình cảm, về sự gắn bó giữa con người với nhau trong cuộc đời đầy cách trở. Phải chăng, tình yêu, dù có tha thiết đến đâu, cũng chỉ là một giấc mộng thoáng qua, một hình ảnh nhạt nhòa trong sương khói?

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên xứ Huế đầy thơ mộng, mà còn là những dòng tâm tư da diết của Hàn Mặc Tử. Giữa cái đẹp của cuộc đời, ông vẫn mang trong lòng những day dứt, cô đơn và tiếc nuối. Bài thơ là minh chứng cho hồn thơ nhạy cảm, tài hoa của Hàn Mặc Tử, để lại trong lòng người đọc những xúc cảm sâu lắng và đầy ám ảnh.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - mẫu 3

Hàn Mặc Tử – một hồn thơ tài hoa nhưng bạc mệnh, một con người mang trong mình nỗi đau cả thể xác lẫn tâm hồn, nhưng lại luôn khát khao yêu thương, luôn hướng về cái đẹp. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông, không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên Huế thơ mộng mà còn gửi gắm những tâm tư day dứt về tình yêu, về cuộc đời đầy xa cách và tiếc nuối.

                                    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Ngay từ câu thơ mở đầu, lời hỏi han nhẹ nhàng ấy không chỉ là một lời trách móc mà còn gợi lên biết bao hoài niệm. “Anh” trong câu thơ có thể là tác giả, cũng có thể là một nhân vật trữ tình nào đó, nhưng dù hiểu theo cách nào, câu thơ vẫn mang nặng nỗi niềm hoài vọng, mong mỏi được trở về với thôn Vĩ.

                                    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

                                    Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.

                                    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Cảnh sắc thôn Vĩ hiện lên rực rỡ với ánh nắng ban mai trên hàng cau, một vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi. Những khu vườn xanh mướt dưới ánh nắng càng trở nên lung linh, như ngọc quý. Đặc biệt, hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền” vừa mang nét duyên dáng kín đáo, vừa gợi sự phúc hậu, đoan trang của con người nơi đây. Trong không gian ấy, ta cảm nhận được vẻ đẹp rất Huế: nhẹ nhàng, thanh khiết mà sâu lắng.

Nhưng đằng sau cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp ấy lại là một nỗi buồn sâu thẳm trong lòng nhà thơ. Khổ thơ tiếp theo như một sự chuyển đổi tâm trạng đầy rõ rệt:

                                    “Gió theo lối gió, mây đường mây,

                                    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...”

Nếu ở khổ thơ đầu, thiên nhiên rực rỡ, tràn đầy sức sống thì ở đây, cảnh vật trở nên buồn bã, chia lìa. Gió và mây vốn là hai hình ảnh thường đi cùng nhau, nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, chúng lại tách biệt, mỗi thứ một phương. Đây không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho sự chia ly, xa cách trong tình yêu và cuộc đời của tác giả.

                                    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

                                    Có chở trăng về kịp tối nay?”

Câu thơ gợi lên một không gian huyền ảo, đầy chất mộng. Dòng sông trăng, con thuyền trăng – những hình ảnh đầy lãng mạn nhưng cũng phảng phất một nỗi cô đơn khôn tả. Câu hỏi “Có chở trăng về kịp tối nay?” như một nỗi mong chờ khắc khoải, như một niềm hy vọng mong manh về một cuộc hội ngộ, một tình yêu chưa kịp trọn vẹn.

Khổ thơ cuối càng làm rõ hơn cảm giác xa xăm, hư ảo:

                                    “Mơ khách đường xa, khách đường xa,

                                    Áo em trắng quá nhìn không ra...

                                    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

                                    Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” lặp lại hai lần cụm từ “khách đường xa” để nhấn mạnh sự xa cách. Phải chăng, tình cảm mà tác giả mong muốn hướng đến nay đã trở thành một giấc mộng không thể chạm tới? Hình ảnh “áo em trắng quá nhìn không ra” vừa gợi vẻ đẹp trong sáng của người con gái, vừa thể hiện sự xa vời, mơ hồ.

Không gian “sương khói” càng làm cho hình ảnh con người trở nên nhạt nhòa, hư ảo. Và câu thơ cuối cùng, “Ai biết tình ai có đậm đà?”, như một lời tự vấn đầy bâng khuâng. Tình cảm ấy liệu còn đậm sâu hay đã phai nhạt theo thời gian?

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ mà còn là những nỗi niềm khắc khoải, tiếc nuối của Hàn Mặc Tử về tình yêu, về cuộc đời. Ở đó có niềm khao khát được trở về với những ký ức tươi đẹp, nhưng cũng có nỗi buồn về sự chia xa, cách trở. Chính sự đan xen giữa cái đẹp và nỗi buồn ấy đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của bài thơ, để lại trong lòng người đọc những dư âm khó quên.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:


day-thon-vi-da.jsp


Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học