Top 100 Mở bài Vội vàng (hay nhất)

Tổng hợp trên 100 mẫu Mở bài Vội vàng hay nhất cùng với dàn ý chi tiết và bài văn phân tích mẫu giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Mở bài phân tích bài thơ Vội vàng

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 1

Xuân Diệu là một cái tên quen thuộc được biết đến với những bài thơ về mùa xuân, tuổi trẻ ( trước cách mạng tháng Tám) hay những bài thơ về Tổ Quốc, về nhân dân, về Đảng, về Bác Hồ, về hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, về sự nghiệp xây dựng đất nước (sau cách mạng tháng Tám). Nổi bật trong những bài thơ viết về mùa xuân, tuổi trẻ của Xuân Diệu là bài Vội vàng. Bài thơ là lời giục giã sống mãnh liệt, sống hết mình, quý trọng từng giây, từng phút của cuộc đời mình, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 2

Trước cách mạng tháng tám, hồn thơ của Xuân Diệu hồn nhiên yêu đời, yêu cuộc sống, say mê với cái đẹp, nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian. Nhưng càng yêu say, Xuân Diệu càng sợ cuộc sống sợ tình yêu và vẻ đẹp sẽ bỏ mình và bay đi mất. Chính vì thế mà ta thường gặp trong thơ ông những trạng thái hốt hoảng, lo âu, yêu – sống một cách tham lam, cuống quýt, vồ vập. “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu cho trạng thái cảm xúc ấy của Xuân Diệu.Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu dùng những từ ngữ có tính chất oai nghiêm, mệnh lệnh.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 3

“Vội vàng Xuân Diệu” là cái tôi đầy hân hoan, nồng nhiệt với từng dấu hiệu của sự sống nhưng lại đầy lo âu, phấp phỏng trước những bước đi thời gian của Xuân Diệu. Càng yêu cuộc sống bao nhiêu, Xuân Diệu càng lo sợ trước sự phai tàn của vẻ đẹp, của sự sống bấy nhiêu. Không thể thay đổi quy luật chảy trôi của thời gian nên người thi sĩ ấy đã chủ trương sống vội, sống gấp để tận hưởng trọn vẹn những khoảnh khắc của thời tươi.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 4

“Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình” (Trích “Thi nhân Việt Nam”). Nhận định của nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã đánh giá về những đặc sắc chủ yếu trong sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu - gương mặt tiêu biểu và có nhiều đóng góp nổi bật cho sự phát triển của phong trào thơ Mới. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này chính là “Vội vàng”.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 5

Mùa xuân được coi là mùa khởi đầu của mọi sự sống, là một mùa trong năm mà có đủ hoa, bướm và tình yêu. Con người tận hưởng niềm vui và không khí ấy, cũng biến nó trở thành một trong những thời điểm đáng mong đợi nhất năm. Mùa xuân được mỗi người cảm nhận theo một cái nhìn khác nhau, có thể là vẻ đẹp của một nhành đào, có thể là nét phớt hồng trên má người thiếu nữ. Riêng Xuân Diệu, ông cảm nhận mùa xuân bằng ánh mắt, cũng bằng trái tim. Thông qua bài thơ Vội vàng, ông cho người đọc thấy một bức tranh mùa xuân xinh đẹp, và cả những niềm vui nhưng lại cuống quýt của con người trong mùa xuân đó.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 6

Có bao giờ bạn bỗng cảm thấy hụt hẫng vì những khoảnh khắc quá đỗi ngọt ngào chợt đến rồi vội đi một cách nhanh chóng? Để rồi cứ ngẩn ngơ nhìn mãi về vùng kí ức đẹp đẽ, đan xen chút nghèn nghẹn trong tận đáy lòng. Con người ta là thế, có ai nào biết rằng, mọi điều tuyệt vời đều “vội vàng” đến thế, nên thay vì mãi tiếc nuối, tại sao ta không “vội vàng” sống trọn trong từng phút giây tươi đẹp. Sự “Vội vàng” đó đã được Xuân Diệu thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế trong thi phẩm cùng tên - Vội vàng.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 7

Tuổi trẻ là gì mà mỗi lần nhắc đến lại khiến bao tâm hỗn cứ mãi thơ thẩn? Tình yêu là gì mà cứ mãi làm người ta si mê? Phải chăng vì nó quá đẹp đẽ, nên khiến người ta chẳng thể ngừng ca ngợi? Và có lẽ cũng vì thế, mà thi sĩ qua bao thế hệ vẫn thường khai thác về chủ đề này. Trong đó, Xuân Diệu là một nhà thơ được coi như biểu tượng của nghệ thuật thời gian, của tình yêu và khát vọng của sức trẻ. Nổi bật cho tâm hồn đắm say, yêu đời đó là bài thơ “Vội vàng” được ví như đóa hoa đầy hương sắc của mùa xuân. Qua những vần thơ tràn đầy cảm xúc, Xuân Diệu đã thể hiện một cái tôi rất riêng cùng những suy ngẫm tinh tế về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu và sức sống mãnh liệt. Sống vội phải chăng là trân trọng cuộc sống, trân trọng từng phút giây của cuộc đời tươi mới, là nếm trọn hương vị của thời thanh xuân tuyệt vời ngọt ngào vị tình yêu?

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 8

Thả mình lơ đãng vào cơn gió nhẹ của buổi sớm mai,nhắm mắt và tận hưởng những dư vị ngọt ngào còn đọng lại của những vần thơ Xuân Diệu cất lên,ca lên khúc ca tình say đắm của “Vội vàng” ,ta thấy lòng mình sao rạo rực quá. Có phải chăng những xúc cảm của thơ Xuân Diệu đã uốn mình chạm tới con tim? Có lẽ chăng sự khao khát mãnh liệt của một cơ thể tràn trề sức sống đã thức tỉnh niềm say mê trong lồng ngực trước những cảnh sắc tuyệt mĩ của thiên nhiên đất trời.Quả thật,thơ Xuân Diệu chính là nguồn sống dạt dào nhất trên thế gian nhiều sắc màu ấy.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 9

Cơn mưa lạnh đầu mùa khẽ hôn nhẹ lên mái tóc sương của làn gió mỏng.Phảng phất hương thơm ngọt ngào của những trái mâm xôi được ủ kín dưới màn mưa trắng.Chàng thi sĩ trẻ đắm mình trong hương hoa của tình yêu,cuộn tròn trong thứ cảm giác say mê đến lạ thường. Trong ánh mắt trào dâng đầy hương sắc ấy,Xuân Diệu nâng niu mùa xuân như một người giai nhân kiều diễm thanh tú với đôi môi đỏ mọng ái tình.Thi sĩ đã hóa thân vào thiên sắc của đất trời,mang theo tất thảy hương vị tinh túy của thế gian, đưa vào “ Vội vàng” làm sống dậy cả một tâm hồn khát khao đến mãnh liệt.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 10

Rót vào những vần thơ cả tâm tình của tuổi trẻ,những mật ngọt của Xuân Diệu thấm đượm vào từng câu chữ của bầu trời Thơ mới, “ ông hoàng thơ tình ấy” mang trọn cõi lòng mình gửi gắm vào thiên nhiên,vào thứ tình yêu mang tên “ cuộc đời” ấy. “ Vội vàng “ ra đời mang trong mình ước nguyện của thi sĩ,mong muốn được giao hòa đến tột cùng của nhà thơ với cuộc đời.Sắc hương mùa xuân mang theo những tiếc nuối của nhà thơ,muốn đoạt quyền của tạo hóa để lưu giữ laj hương sắc của cuộc đời đẹp tươi.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 11

Đến với Thơ mới, độc giả như lạc chân vào khu rừng tràn đầy thanh sắc với cái mơ màng, lãng mạn của Lưu Trọng Lư, với sự chân quê, giản dị của Nguyễn Bính và cả cái kì dị đầy bí ẩn của Hàn Mặc Tử. Và trong khu vườn đậm sắc hương ấy, ta không thể không nhắc đến Xuân Diệu - người được mệnh danh là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Xuân Diệu đã mang đến cho thơ Mới luồng gió xuân đầy mới mẻ với cái "tôi" yêu đời, yêu cuộc sống và một tâm hồn lãng mạn, dạt dào cảm xúc. Vội vàng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho tâm hồn dào dạt, tình yêu đời thiết tha của người thi sĩ.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 12

Cơn mưa lạnh đầu mùa khẽ hôn nhẹ lên mái tóc sương của làn gió mỏng. Phảng phất hương thơm ngọt ngào của những trái mâm xôi được ủ kín dưới màn mưa trắng. Chàng thi sĩ trẻ đắm mình trong hương hoa của tình yêu, cuộn tròn trong thứ cảm giác say mê đến lạ thường. Trong ánh mắt trào dâng đầy hương sắc ấy, Xuân Diệu nâng niu mùa xuân như một người giai nhân kiều diễm thanh tú với đôi môi đỏ mọng ái tình. Thi sĩ đã hóa thân vào thiên sắc của đất trời, mang theo tất thảy hương vị tinh túy của thế gian, đưa vào “Vội vàng” làm sống dậy cả một tâm hồn khát khao đến mãnh liệt.

Mở bài phân tích Vội vàng - Mẫu 13

“Hồn thơ Xuân Diệu là nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Những lời bình phẩm sâu sắc ấy của Hoài Thanh dành cho Xuân Diệu có lẽ đã đủ nói về một hồn thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” – một hồn thơ lúc nào cũng “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. “Vội vàng” là một thi phẩm gói trọn hết thảy những cung bậc cảm xúc ấy, cũng có thể gọi đó như một bài thơ “rất Xuân Diệu”.

Mở bài cảm nhận bài thơ Vội vàng

Mở bài cảm nhận Vội vàng - Mẫu 1

Người ta vẫn thường hay nói tuổi xuân giống như một cơn mưa rào. Cho dù bạn bị cảm lạnh vì tắm mưa, bạn vẫn muốn được đắm mình trong cơn mưa ấy lần nữa. Thông thường khi đã đi qua tuổi thanh xuân rồi, người ta mới cảm thấy nuối tiếc. Đúng là như vậy! Chỉ những khi mọi thứ trôi đi ta nhìn lại mới thấy nó đẹp và đáng yêu đến nhường nào. Thời gian là một thứ luôn luôn dịch chuyển, chẳng đứng lại chờ ai bao giờ. Chính vì thế nếu được sống ta hãy sống cho trọn vẹn từng khoảnh khắc, từng phút giây của một đời người. Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất ý thức cá nhân của cái tôi mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội Vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống, “thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ - bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc.

Mở bài cảm nhận Vội vàng - Mẫu 2

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh viết: "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này - Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sông cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình". Thơ Xuân Diệu bộc lộ hồn thơ trẻ trung, nồng nàn và tình yêu cuộc sống đến độ đam mê ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ Vội vàng. Bài thơ cũng thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

Mở bài cảm nhận Vội vàng - Mẫu 3

Xuân Diệu là nhà thơ lớn của văn học hiện đại Việt Nam. Ông để lại hàng chục tập thơ với trên dưới 1000 bài thơ thấm thía tình yêu cuộc sống nồng nàn. Một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ-tập thơ được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ thể hiện tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy.

Mở bài cảm nhận Vội vàng - Mẫu 4

Vội vàng là một thi phẩm xuất sắc tiêu biểu cho thơ của Xuân Diệu, tác phẩm thể hiện đầy đủ các cung bậc cảm xúc trong tình yêu, đồng thời bộc lộ những khát khao nồng nàn, mãnh liệt của tác giả. Qua đó, nhà thơ gửi gắm đến người đọc, người nghe những triết lý nhân sinh sâu sắc bằng một giọng thơ đầy phóng khoáng, tự do.

Mở bài phân tích 4 câu thơ đầu bài Vội vàng

Mở bài phân tích 4 câu thơ đầu - Mẫu 1

Nếu cần tìm một bài thơ bộc lộ rõ nhất về phong cách của Xuân Diệu thì đó có phải là “Vội vàng”. Thi phẩm này đã nói với chúng ta cái cảm xúc vồ vập với cuộc đời của tuổi trẻ. Thơ Xuân Diệu bao giờ cũng vội vàng, cuống quýt, nó là những cung bậc rạo rực băn khoăn vì thế mà khi vui cũng như khi buồn đều thấy nồng nàn, tha thiết. (ý Hoài Thanh).

Mở bài phân tích 4 câu thơ đầu - Mẫu 2

Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên "Vội vàng", "Đây mùa thu tới", và "Thơ duyên" trong tuyển tập "Thơ thơ" - đứa con đầu lòng mà "ông hoàng thơ tình" đã ban tặng cho nhân gian.

Mở bài phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 1

Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới thời bấy giờ, với hồn thơ đại diện cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu có sự tinh tế, gợi cảm, độc đáo từ chất liệu đến bút pháp thi ca. "Vội vàng" là một trong những bài thơ hay nhất mà nhà thơ dành tặng cho thế gian này. Bài thơ là một nguồn cảm xúc trào dâng, là tuyên ngôn sống của một con người khao khát yêu đời. Cùng phân tích 13 câu đầu trong bài thơ Vội Vàng để thấy rõ hơn tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của tác giả với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 2

Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mạng, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trở thành “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu. Tác phẩm để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây: “Tôi muốn tắt nắng đi … Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 3

Phân tích 13 câu thơ đầu bài Vội Vàng của Xuân Diệu cho con người ta thấy được: Thời gian là một cái không bao giờ trở lại, nó như một vòng tuần hoàn, đến rồi đi. Và đi một cách vội vã, mà con người không thể tự xoay chuyển nó được đó chính là nỗi lòng của Xuân Diệu muốn nói đến ở đây. Xuân Diệu muốn khuyên con người chúng ta không nên để thời gian trôi qua một cách vô ích mà phải biết quý trọng, tôn trọng thời gian.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 4

Xuân Diệu là ông hoàng của tình yêu, dù đó là tình yêu gì đi chăng nữa thì nó vẫn ngọt ngào đầy xúc cảm. Ông còn được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Những sáng tác, những bài thơ của ông đem đến cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt cùng với đó là một hồn thơ mới lạ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ. Trong số đó, tiêu biểu có bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ hay thể hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả, và 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc. Những tư tưởng triết lí cũng thế mà được gửi gắm chân thành tự nhiên.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 5

Xuân Diệu là một nghệ sĩ đa tài - viết văn, làm thơ, phê bình, nghiên cứu văn học,... nhưng để lại nhiều thành tựu nổi bật hơn cả vẫn là thơ ca. Xuân Diệu là một trong số những nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới với những vần thơ rạo rực niềm yêu đời, thiết tha với cuộc sống, luôn thể hiện một khát vọng “vô biên và tuyệt đích” và một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Và có lẽ, nét đặc sắc ấy trong thơ Xuân Diệu được thể hiện rõ nét qua mười ba câu đầu của bài thơ “Vội vàng”.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 6

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu biểu cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. "Vội vàng" không chỉ là thi phẩm đặc sắc nhất trong tập thơ Thơ - bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài thơ hay nhất cả cuộc sống sáng tác của ông. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. 13 câu đầu là đoạn thơ hay nhất thể hiện tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 7

Vội vàng bài thơ xuất sắc của nhà thơ Xuân Diệu thể hiện triết lí sống của chính tác giả đó là sống nhanh, khẩn trương, hãy mở lòng để đón nhận những gì tinh túy nhất từ cuộc sống.13 câu thơ đầu đã đã thể hiện những suy nghĩ của tác giả, nỗi niềm băn khoăn, tiếc nuối khi cuộc sống cứ đang dần trôi đi.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 8

Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Đây cũng là ba chủ đề chính trong sự nghiệp thơ ca của ông trước cách mạng tháng Tám. Với mười ba câu thơ đầu tiên trong bài thơ "Vội vàng", thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống đến mãnh liệt.

Mở bài phân tích 13 câu đầu - Mẫu 9

Thời đại thơ mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của thơ ca Việt Nam. Thời điểm thơ văn khoát lên cho mình một chiếc áo được cách tân mới mẻ, là mảnh đất màu mỡ vun trồng những hồn thơ tài ba như: Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu,... Theo như Hoài Thanh nhận định Tản Đà là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có lẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng bạn đọc khi cho ra đời tập: Thơ thơ được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ Vội vàng được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về nội dung và hình thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rạo rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”.

Mở bài phân tích đoạn 2 bài thơ Vội vàng

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 1

Có thể đưa ra nhận xét đó chính là thơ Mới là thời kì giải phóng cái tôi, để quan niệm phi ngã ở trong văn chương trung đại không còn là chiếc cũi giam bó hẹp người nghệ sĩ. Trong văn học thời kỳ này thì có rất nhiều nghệ sĩ đã dang đôi cánh thể hiện trí tưởng tượng của mình. Một trong số nhà thơ đó thì Xuân Diệu với bộ ý phục tối tân của mình dường như cũng đã lại trở thành đại biểu tiêu biểu nhất và ông được mệnh danh là nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới. Trong các sáng tác của ông không thể thiếu được cái tên Vội Vàng. Trong bài thơ thì đặc sắc nhất chính là khổ thơ thứ 2 vì thông qua khổ thơ này cũng đã thể hiện được quan niệm nhân sinh quan mới mẻ của Xuân Diệu.

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 2

Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ.

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 3

Xuân Diệu nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, thơ của ông thể hiện tình cảm ham muốn thưởng thức trọn vẹn tuổi trẻ, trân trọng khoảng thời gian quý báu của tuổi trẻ chỉ đến một lần trong đời. Bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, dạt dào của tác giả, khát vọng sống nhanh nhưng có ý nghĩa.

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 4

Nền văn học Việt Nam với điểm nhấn của trào lưu Thơ Mới luôn để lại dấu ấn với nhiều tuyệt tác đặc biệt. Trong số những đóng góp của các nhà thơ thì Xuân Diệu được xem là một cây đại thụ lão làng với bao tập thơ về tình yêu khiến độc giả say đắm, mê mẫn. Vội vàng là tác phẩm điển hình viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Ta sẽ thấy rõ nét hơn về điều này ngay khi đến với khổ thứ hai của bài thơ.

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 5

Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chố nước non lặng lẽ này.”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong cách của ông – Vội vàng. Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 6

Xuân Diệu là một nhà thơ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ "Vội vàng" trích trong tập "Thơ thơ". Thi phẩm mang đến cho đọc giả một bức tranh mùa xuân tươi mới và những cảm quan nhân sinh đầy mới mẻ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn văn thể hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc đời.

Mở bài phân tích đoạn 2 - Mẫu 7

Thơ Mới là thời kì giải phóng cái tôi, để quan niệm phi ngã trong văn chương trung đại không còn là chiếc cũi giam chật hẹp gò ép người nghệ sĩ, ở thời kì này người nghệ sĩ như cánh chim được tự do tung bay, tháo túi sổ lồng. trong số ấy thì Xuân Diệu với bộ ý phục tối tân của mình đã trở thành đại biểu tiêu biểu nhất, là nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới. Và “Vội Vàng” chính là một trong những bài thơ đặc sắc nhất về phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu, một hồn thơ thiết tha rạo rực băn khoăn như Hoài Thanh đã nhận xét. Đặc biệt khổ thơ thứ 2 từ “của ong bướm...hoài xuân” đã bộc lộ những quan niệm thẩm mĩ và nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu về cuộc đời.

Mở bài phân tích khổ cuối bài thơ Vội vàng

Mở bài phân tích khổ cuối - Mẫu 1

Mỗi nhà thơ đều lấy cho mình những dư vị để làm chất riêng cho chất thơ của mình. Nếu Huy Cận là say mê bất tận với cảnh sắc và không gian, Xuân Quỳnh là những rạo rực đắm chìm trong tình yêu thì khi đến với Xuân Diệu ta lại thấy được sự hưng phấn, cuồng si tột độ với những khoảnh khắc lí thú chảy trôi của thời gian. Nỗi niềm ấy được bộc lộ rõ nét qua lời thơ Vội vàng, và đặc biệt qua khổ thơ cuối:

Mở bài phân tích khổ cuối - Mẫu 2

“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu trích trong tập thơ “Thơ và Thơ” của nghệ sĩ tài năng Xuân Diệu. Bài thơ là tiếng nói tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống, thiết tha với tuổi trẻ của Xuân Diệu. Mười câu thơ cuối bài chính là khúc hát khép lại bài thơ với những quan niệm nhân sinh sâu sắc.

Mở bài phân tích khổ cuối - Mẫu 3

Thời gian chẳng bao giờ chiều lòng người, con người thì nhỏ bé nhưng khát khao lại lớn lao, càng yêu đời, yêu người bao nhiêu thì lại càng thảng thốt khi nhận ra quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Là một nhà thơ mới có cái nhìn tinh tế và trái tim dễ say đắm nhưng cũng bộn bề lo sợ – Xuân Diệu hơn ai hết luôn dằn dặt trước sự trôi chảy của thời gian và tuổi xuân. Có lẽ thế mà nhà thơ luôn sống vội vàng, sống gấp gáp và cũng yêu đắm say. Bài thơ Vội Vàng được xem là châm ngôn sống của Xuân Diệu cũng là tác phẩm thể hiện cái tôi mãnh liệt trong cảm xúc và nhiều khám phá mới mẻ ở hình ảnh thơ. Trong đó khổ thơ cuối bài với tiết tấu nhanh và mạnh như một lời kết luận cho châm ngôn sống vội của ông.

Mở bài phân tích khổ cuối - Mẫu 4

Đến với thế giới thi ca là đến với thế giới của muôn vàn cảm xúc. Ta từng biết đến một Thế Lữ "rộng mở", một Nguyễn Bính "quê mùa", một Hàn Mặc Tử "kì dị". Và thật thiếu sót khi nhắc đến đỉnh cao Thơ mới khi ta quên mất cái tên Xuân Diệu - "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" (Theo Thi nhân Việt Nam - Hoài Thanh). Ông đã thổi vào nền văn học đương đại một luồng gió mới đầy độc đáo, mới lạ và mang đầy tính nhân văn. Và một trong những vần thơ thể hiện rõ nhất quan niệm ấy là khổ cuối bài "Vội vàng".

Mở bài phân tích khổ cuối - Mẫu 5

Xuân Diệu là cái tên không hề xa lạ trong văn đàn Việt Nam. Ông được mệnh danh là " nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Thơ của ông mang màu sắc tươi mới, tràn trề sức sống và chứa đựng khát khao mãnh liệt được tận hưởng cuộc đời. Tình yêu cái đẹp và yêu cuộc sống của ông được thể hiện vô cùng sâu sắc qua trong bài thơ "Vội vàng". Đặc biệt là khổ thơ thứ ba của tác phẩm với khát vọng tận hưởng mãnh liệt.

Mở bài bức tranh mùa xuân trong Vội vàng

Mở bài mẫu 1

Mùa xuân vốn là một đề tài bất tận của thi ca, nhạc, họa. Đến với một đề tài đã quen thuộc mà thể hiện thành công, đó là dấu hiệu của tài năng bởi nhà thơ tài năng phải là người “Tìm được tiếng nói mới cho một đề tài đã cũ”. Vâng. Mùa xuân là một đề tài “đã cũ”. Nhưng xuân trong “Vội vàng” của Xuân Diệu lại không bao giờ cũ.

Mở bài mẫu 2

Xuân Diệu nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ. Vần thơ nào của ông cũng thấm đẫm lòng yêu, lòng thiết tha với cuộc sống. Đó là cuộc sống tươi non mơn mởn của thiên nhiên vạn vật. Vội vàng tuy chỉ có dung lượng khá nhỏ đề cập đến khung cảnh thiên nhiên, nhưng chỉ cần như vậy thôi ta cũng nắm bắt được trọn vẹn tinh thần, lòng yêu cuộc sống của ông.

Mở bài mẫu 3

Thiên nhiên luôn là đề tài bất tận của thi ca, viết về thiên nhiên, ai cũng dành cho nó sự yêu thương vô tận. Vẻ đẹp của tự nhiên mang đến cho con người sự thanh thản trong tâm hồn, nuôi dưỡng những giọt nguồn yêu thương trong trái tim mỗi người. Đối với các thi nhân, bằng cảm quan và sự rung động tình tế của người nghệ sĩ, họ đã dành tặng thiên nhiên những vần thơ vô cùng đẹp đẽ. Đó là Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, là Sang thu của Hữu Thỉnh hay Chiều Xuân của Anh Thơ. Đến với Vội vàng của Xuân Diệu, ta cũng được cảm nhận một thiên đường tuyệt diệu trên mặt đất được tỏa sáng bởi thiên nhiên rực rỡ, vừa xinh đẹp lại vừa chứa chan ý tình.

Mở bài mẫu 4

Xuân Diệu thật xứng đáng khi được mệnh danh là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. "Thơ Xuân Diệu mang một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này" (Hoài Thanh). Thiên nhiên trong thơ ông là những bức tranh tràn đầy màu sắc được phác họa dưới nét vẽ tài hoa của người nghệ sĩ có cái nhìn tinh tế. Bằng cặp mắt "xanh non", "biếc rờn", tác giả đã phát hiện ra sự non tơ đầy sức sống của mùa xuân, đất trời và ông đã thể hiện những vẻ đẹp ấy qua bài thơ "Vội vàng".

Mở bài mẫu 5

Nếu vẻ đẹp của thiên nhiên trong trang thơ của Huy Cận, Hàn Mặc Tử luôn mang một nét đượm buồn, ảm đạm thì trái ngược lại với hồn thơ của Xuân Diệu thiên nhiên mang trong mình một nét riêng biệt góp phần mang lại một cái nhìn mới cho vẻ đẹp thiên nhiên trong thơ ca. Tiêu biểu cho điều ấy là bài thơ “Vội vàng” sáng tác năm 1938 và được in trong tập “Thơ thơ” với bức tranh thiên nhiên mang sức sống mãnh liệt có sự tươi non mơn mởn, có sự căng tràn nhựa sống nhưng cũng rớm vị chia phôi và bị tàn phá khốc liệt bởi thời gian. Vẻ đẹp thiên nhiên đã góp phần thể hiện quan niệm nhân sinh, tư tưởng tiến bộ, mới mẻ của nhà thơ.

Mở bài mẫu 6

Xuân Diệu là người luôn khát khao giao cảm với đời, Xuân Diệu viết văn, làm thơ rồi đến với Cách mạng rất tự nhiên, chân thành và nồng nhiệt. Ông đã tham gia mặt trận VIệt Minh. Sau Cách mạng tháng 8, ông hăng hái tham gia hoạt động trong các lĩnh vực nghệ thuật gắn bó cả đời với sự nghiệp. Trước cách mạng, Xuân Diệu được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, bởi nguồn cảm xúc dạt dào trẻ trung, sôi nổi với quan niệm nhân sinh mới mẻ giữa những cách tân đầy stạo. Vội vàng được in trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu tay của Xuân Diệu. “vội vàng” là 1 trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng 8. Bài thơ đã thể hiện quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thiên nhiên, cuộc sống, đặc biệt là thời gian.

Mở bài triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng

Mở bài triết lý nhân sinh trong Vội vàng - Mẫu 1

Xuân Diệu một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ Mới, ông được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Đạt được danh vị như vậy không chỉ bởi những vần thơ mới mẻ, cách luật so với thơ cũ, mà còn bởi những triết lí nhân sinh hết sức mới mẻ trong thơ ông. Vội vàng được trích từ tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, nhưng đã thể hiện những quan điểm triết lí nhân sinh mới mẻ, đúng đắn của chàng trai khi tuổi đời mới 22.

Mở bài triết lý nhân sinh trong Vội vàng - Mẫu 2

Xuân Diệu là một nghệ sĩ tài năng đầy sáng tạo, có vai trò quan trọng trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Thơ ông là tiếng lòng của một con người luôn khao khát giao cảm với đời, say mê cái đẹp. Ông là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Một trong những bài thơ nổi tiếng được nhiều độc giả biết đến là “Vội vàng” thể hiện cái tôi cá nhân luôn khao khát tận hưởng cuộc sống, yêu đời mãnh liệt ẩn đằng sau tình yêu ấy là quan niệm triết lí nhân sinh sâu sắc về thời gian, tuổi trẻ, con người và vẻ đẹp cuộc sống được Xuân Diệu truyền tải từ bao đời nay vẫn còn nguyên giá trị.

Mở bài quan niệm sống vội vàng của Xuân Diệu

Mở bài mẫu 1

Nhà thơ được Hoài Thanh đánh giá là “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” chính Xuân Diệu không ai khác. Thơ ông là một nguồn sống dào dạt tràn đầy xuân sắc xuân tình của một thi nhân yêu say đắm tình yêu, cuộc đời và biết trân trọng, tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống. Tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu là bài thơ “Vội vàng” thể hiện quan niệm sống vội vàng rất mới mẻ, có ý nghĩa. Vậy tại sao Xuân Diệu lại có được điều đó ta cùng tìm hiểu bài thơ để làm rõ lối sống vội của thi nhân.

Mở bài mẫu 2

Xuân Diệu từng được mệnh danh là “ông hoàng của thơ tình”. Đúng vậy, ông viết nhiều thơ và nổi tiếng nhiều với những bài thơ tình. Nhưng có lẽ đến với Vội vàng, bài thơ viết vào năm 1938, in trong tập Thơ Thơ, chúng ta có thể nhận thấy vì sao chẳng cần đến những bài thơ tình thì ông vẫn là một nhà thơ nổi tiếng, một nhà thơ lớn của dân tộc. Bởi tiếng thơ trong Vội vàng là tiếng đời, bộc lộ nhiều rung cảm và những triết lí sâu sắc. Trong đó thi phẩm cũng đã mang đến một quan niệm sống vô cùng ý nghĩa – sống vội vàng.

Mở bài mẫu 3

Một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ thi phẩm được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ thể hiện tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy. Bài thơ Vội vàng được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình.

Mở bài mẫu 4

Xuân Diệu nhà thơ tình của thi ca Việt Nam. Thơ ông tràn ngập tình yêu, không chỉ là tình yêu nam nữ mà còn là tình yêu cuộc sống. Ông sống vội vàng, gấp gáp để nắm bắt trọn vẹn mọi khoảnh khắc của cuộc đời. Triết lí sống vội vàng, gấp gáp đã được ông thể hiện đầy đủ trong bài thơ “Vội vàng” trích trong tập “Thơ thơ” – tập thơ đầu tay của ông.

Dàn ý Mở bài Vội vàng

- Rút trong tập Thơ thơ, tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.

- Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.

1. Bố cục của bài thơ

    Bài thơ có thể chia làm ba đoạn:

- Đoạn 1 (13 câu đầu): Tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm của tác giả.

- Đoạn 2 (câu 14 đến câu 30): Tâm trạng băn khoăn của tác giả về tuổi trẻ của đời người trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.

- Đoạn 3 (9 câu cuối): Tâm trạng vội vàng, thái độ sống gấp gáp của tác giả, đồng thời là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu.

    Bố cục của bài thơ khá rõ ràng, thể hiện mạch lí luận sâu sắc và chặt chẽ. Đó là mạch cảm xúc hối hả, vội vàng trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.

2. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ

    Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sông say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng.

   Thời gian và mùa xuân

    Cảm nhận về thời ẩmn của Xuân Diệu hết sức tinh tế và đầy triết lí nhân sinh. Xuân Diệu viết bài thơ này khi còn rất trẻ, đó là cái tuổi của sự sống mơn mởn, của việc hưởng thụ sự sống, ít ai có thể nghĩ đến một triết lí sâu xa như Xuân Diệu. Đối với Xuân Diệu, mỗi khắc thời gian trôi qua chính là niềm sợ, lo canh cánh trong lòng. Tác giả sử dụng cú pháp đối lập để diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ: đương tới / đương qua; còn non / sẽ già. Sự cảm nhận về thời gian đó đã giúp tác giả rút ra kết luận về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tuổi trẻ của chính mình cũng như của tất cả mọi người:

    Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

    Mùa xuân trôi đi thì tuổi trẻ cũng phai tàn, và khi xuân không còn thì đời người cũng hết. Cảm nhận về sự tàn phai của thời gian đã được Xuân Diệu khái quát thành một triết lí nhân sinh. Chắc hẳn phải là người có ham muốn sống tột bậc mới có thể cảm nhận về thời gian một cách cao sâu như vậy. Hẳn là trong Xuân Diệu đã chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, cũng có thể Xuân Diệu quá yêu cuộc sống nồng nhiệt đến mức sợ thời gian cướp mất tuổi xuân của mình. Có thể gỉải thích bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu bắt nguồn từ chính lòng yêu đời, yêu cuộc sống của sống.

   Thời gian và tuổi trẻ

    Mùa xuân chính là tuổi trẻ của đời người, của tác giả. Thời gian làm mùa xuân tròi qua cũng chính là cướp đi tuổi trẻ của tác giả. Đó chính là sự lo lắng và xót xa của con người vốn rất yêu cuộc sống, yêu cái tuổi trẻ đầy sức sống của mình. Tâm trạng lo lắng đó đã được tác giả bộc bạch trong những câu thơ đầy triết lí:

    Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

    Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

    Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

    Nếu tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại!

    Câu thơ tưởng chừng là lời than vãn nhưng hiện lên trong đó là một quan niệm sâu sắc: cuộc đời làm sao có hai lần tuổi trẻ, và khi thời gian trôi qua thì tuổi trẻ có còn? Một sự so sánh không hề khập khiễng để thấy rằng cuộc đời con người luôn có giới hạn và nhất là cái tuổi trẻ thật đẹp nếu so với mùa xuân của trời đất. Với Xuân Diệu, tuổi trẻ là cái quý nhất của cuộc đời con người, đó là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Chính vì vậy tuổi trẻ trôi qua là điều nhà thơ lo lắng nhất và tiếc nuối nhất: Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

    Cảm nhận về thời gian của tác giả làm hiện lên niềm khát sống, khát khao hạnh phúc của một con người vốn có nhiều khát khao. Niềm khát khao ấy thể hiện qua ước muốn níu kéo thời gian để giữ mãi tuổi thanh xuân, giữ mãi mùa xuân của đời người, để con người mãi sống trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.

3. Cảm nhận của tác giả về thiên nhiên và sự sống trong bài thơ

    Nhà thơ giãi bày cái ước muốn tưởng như ngông cuồng của mình bằng một bức tranh tràn đầy sức sống, ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân.

    Bức tranh thiên nhiên có đủ ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất. Tuần tháng mật của ong bướm; hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành lơ phơ phất; khúc tình si của yến anh; hàng mi chớp ánh bình minh của mặt trời... tất cả hiện hữu có đôi lứa có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.

    Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất. Điệp khúc này đây cùng với các liệt kê theo chiều tăng tiến, cách dùng từ láy, từ ghép và những cụm từ tuần tháng mật, khúc tình si hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm giác sung sướng, ngây ngất, vừa có nhịp thơ gấp gáp, vừa có gì như là sự hối thúc, giục giã, khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm thơ, không thể quay lưng. Cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng và tận hưởng. Đó là lời tác giả muốn nhấn mạnh khi khắc họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ.

    Nhà thơ như say khi thốt lên:

    Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

    Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn và lối diễn độc đáo mới lạ. Với Xuân Diệu, cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn... Xuân Diệu đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng cặp môi gần. Xuân Diệu còn truyền cảm giác cho người đọc bằng các từ ngon, gần. Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.

4. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn cuối bài thơ

    Đoạn cuối trong bài thơ gồm có 9 câu đã diễn tả được khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả của Xuân Diệu. Khát vọng ấy được thể hiện qua những hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu hết sức vội vàng, gấp gáp.

- Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.

- Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.

- Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.

5. Giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

- Giá trị nội dung

    Quan niệm sống mới mẻ của tác giả là yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy, trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người. Đó là quan niệm sống rất người mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.

- Giá trị nghệ thuật

    Những cách tan của thơ mới được thể hiện một cách sáng tạo và táo bạo qua ngòi bút của Xuân Diệu: từ cảm hứng, ý tưởng thơ cho đến hình ảnh, nhịp điệu, ngôn từ... tất cả đều in dấu ấn phong cách Xuân Diệu.

Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932-1941.

Phân tích bài thơ Vội vàng - mẫu 1

   Xuân Diệu được đánh giá là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, được người đời gọi là “Ông hoàng của thơ tình”. Ông luôn khao khát giao cảm với đời với cuộc sống. Bài thơ “Vội vàng” in trong tập “Thơ thơ” là tác phẩm tập trung cao độ nhất khát vọng cuộc sống của Xuân Diệu với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau cho thấy những quan niệm mới mẻ về thời gian và tuổi trẻ với những cách tân độc đáo của nhà thơ. Do đó phân tích tác phẩm ta chọn đi theo mạch cảm xúc của tác giả khi tự tin thể hiện ước muốn bản thân, khi hân hoan say đắm với vẻ đẹp thiên nhiên, khi nuối tiếc cho cuộc đời, khi hối thúc, giục giã để lại triết lí nhân sinh sâu sắc cho độc giả.

   Mở đầu bài thơ tác giả thể hiện cái tôi cá nhân với ước muốn táo bạo, kì lạ bằng bằng bốn câu thơ ngũ ngôn:

    “Tôi muốn tắt nắng đi

    ...Cho hương đừng bay đi”

   Nắng, gió là hai hiện tượng của tự nhiên nhưng ở đây tác giả sử dụng điệp từ “Tôi muốn” để thể hiện nguyện ước ngông cuồng, phi lí của bản thân muốn can dự vào quy luật của tạo hóa. Điều đó dường như là không thể, không bao giờ nhưng qua vần thơ của Xuân Diệu nó được hiện lên với khát vọng có ý nghĩa cao đẹp. Tác giả muốn tắt nắng “Cho màu đừng nhạt mất”, muốn buộc gió “Cho hương đừng bay đi”, ông muốn muốn vĩnh viễn hóa khoảnh khắc của hiện tại, muốn bất tử hóa cái đẹp của thiên nhiên, muốn lưu giữ mãi hương sắc, vẻ đẹp của trần gian để đắm mình tận hưởng sự ưu ái, sự ban tặng của đất trời. Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, hàm súc cùng với điệp từ “tôi muốn” làm bật lên cái tôi cá nhân mạnh mẽ, cho thấy ông là một con người yêu say đắm thiên nhiên, yêu cái đẹp bình dị, say mê và trân trọng cuộc sống vô cùng.

   Từ ước muốn dạt dào, tác giả dùng con mắt và tâm hồn thi nhân để khám phá vẻ đẹp của tạo hóa với tâm trạng hân hoan, sung sướng. Xuân Diệu ông tìm thấy vẻ đẹp ở ngay tại đây, tại khoảnh khắc này đó là thực tại, là cuộc sống trần gian với sắc xuân của thiên nhiên căng tràn nhựa sống:

    “Của ong bướm này đây tuần tháng mật

    ...Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”

   Với điệp từ “này đây” được sử dụng nhà thơ lần lượt liệt kê từng hình ảnh cụ thể, rõ ràng của mùa xuân với cảm xúc vui sướng trước sự phong phú mà cuộc đời ban tặng. Đó là ong bướm với tuần tháng mật là tuần đầu tiên tận hưởng hạnh phúc của đôi vợ chồng mới cưới; là màu xanh mướt của hoa ở đồng nội; là lá của cành non tơ, phơ phất, mềm mại, uyển chuyển; là âm thanh của tiếng chim yến anh_loài chim tượng trưng cho tình yêu vĩnh hằng. Cuộc sống trong cảm nhận của tác giả đẹp kiều diễm với ánh sáng “chớp hàng mi”, người ta vui vì thần Tài gõ đến nhà còn với Xuân Diệu mỗi ngày của ông đều có “thần Vui hằng gõ cửa”. Mỗi ngày sống là trọn niềm vui. Tháng giêng_ tháng đầu tiên của mùa xuân, tháng khởi đầu của một năm. Nhắc đến mùa xuân là nhắc đến tuổi trẻ của đời người. Tháng giêng được thi sĩ so sánh thật độc đáo với “cặp môi gần”. Khác với thời kì trước thơ ca không nhắc đến hình ảnh thực trên cơ thể con người nhưng Xuân Diệu lại mạnh dạn thể hiện nó trong ý thơ của mình. Nhà thơ luôn nhìn vẻ đẹp của mùa xuân với con mắt của kẻ say tình. Tính từ “ngon” được sử dụng đã biến Tháng giêng vô hình hiện lên là một vật thể hữu hình với bao sức hấp dẫn, cuốn hút, quyến rũ. Câu thơ được coi là sáng tạo chỉ riêng Xuân Diệu mới có đồng thời nó cũng đổi mới về thi pháp. Nếu như trong thơ ca trung đại các tác giả thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả vẻ đẹp của con người_ người ta gọi đó là bút pháp ước lệ tượng trưng, ta thấy hiện lên rõ nét nhất khi Nguyễn Du tả nhan sắc của chị em Thúy Kiều là “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”, là “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” còn Xuân Diệu thì ngược lại lấy ông con người làm chuẩn mực cho vẻ đẹp thiên nhiên. Đây là một cách tân độc, lạ để làm nổi bật lên tư tưởng mới mẻ, tiến bộ của “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Theo Xuân Diệu khoảng thời gian đẹp nhất của đời người là tuổi trẻ, giá trị lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu. Ông đã từng phải thốt lên rằng: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không thương, không nhớ một kẻ nào”. Cuộc đời của ông luôn tràn ngập tình yêu tuổi trẻ, tình yêu cuộc sống. Tác giả tập trung lắng mình để cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên khi xuân sang bằng tất cả các giác quan của mắt, tai, miệng và trái tim yêu tha thiết cuộc đời với hương vị tình yêu. Ta có thể hình dung nhà thơ đang đứng giữa đất trời dang rộng đôi tay và mở toang tầm hồn muốn ôm trọn, muốn đón nhận tất cả sức sống dào dạt của thiên nhiên.

   Thi nhân yêu tha thiết cái đẹp để rồi bồi hồi, tiếc nuối:

    “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

   Dấu chấm giữa dòng ngắt đôi câu thơ thành hai vế với hai trạng thái cảm xúc khác nhau, tạo cảm giác hụt hẫng nó như một bản lề khép hờ vừa chốt lại tình yêu thiên nhiên say đắm, vừa mở ra những băn khoăn, trăn trở ở phía sau. Tác giả không phải chờ đến khi có nắng hạ mới hoài xuân mà ngay lúc ông đang ở trong mùa xuân, đang sung sướng tận hưởng xuân sang vẫn nuối tiếc khi ông nhận ra quy luật của tự nhiên:

    “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

    ...Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

   Đoạn thơ cho thấy quan niệm mới mẻ trước Xuân Diệu chưa từng có, chưa từng xuất hiện trong văn học khác với quan niệm truyền thống của thơ ca trung đại cho rằng thời gian tuần hoàn, xoay tròn, không bị mất đi mà quay trở lại nguồn gốc ban đầu. Đối với Xuân Diệu thời gian trong thơ ông là sự tuyến tính một đi không trở lại điều đó được thể hiện qua các cặp từ trái ngược nhau: “tới-qua”, “non-già” tô đậm sự trôi chảy mãi mãi ngay cả khi nó vừa mới bắt đầu, ngay cả khi nó vẫn đang hiện hữu tồn tại. Mùa xuân ở đây là mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của tuổi trẻ. Tuổi trẻ là quãng thời gian tươi đẹp, ý nghĩa, hạnh phúc nhất của đời người. Câu thơ mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc tác giả như muốn gửi gắm lời nhắn nhủ đến bạn đọc hãy biết trân trọng từng khoảnh khắc của thời gian, nhất là mấy năm ngắn ngủi thanh xuân, khoảng thời gian ấy ta có sức khỏe, có ý chí, có niềm tin và có cơ hội để thử thách bản thân, để cho mình “được thất bại” để thấy cuộc đời có ý nghĩa vô cùng đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân.Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.”

   Nhận thức được quy luật ấy ông tiếc nuối:

    “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

    Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

   Thời gian của trời đất vẫn còn đó đến rồi lại đi nhưng thời gian của tuổi trẻ xa mãi xa, nhà thơ nuối tiếc nên nhìn mọi cảnh vật ông cũng thấy thấm đượm sự chia ly, từ biệt là mùi tháng năm, là lời than thầm tiễn biệt của sông núi, là con gió thì thào với lá biếc, là nỗi hờn vì sắp phải bay đi, là tiếng chim bỗng đứt tiếng reo thi… vạn vật luôn luôn phải đối mặt với sự tàn phá của thời gian. Ngay trong phút giây hạnh phúc vẫn ngầm có sự chia li, “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt”. Tất cả các sự vật trong cái nhìn của nhà thơ đều được nhân hóa hiện hữu lên như con người có cảm xúc biết buồn vui, tủi hờn, đều biết lo sợ bởi khoảnh khắc qua đi của mùa xuân. Nên kết thúc cho mạch cảm xúc của khổ thơ thán từ ôi và dấu chấm than, cùng với dấu ba chấm biểu đạt ý chưa nói hết thể hiện tâm trạng nuối tiếc đến tột cùng của tác giả: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” Khép lại đoạn thơ cũng như mạch cảm xúc bâng khuâng, lưu luyến tác giả khi đã nhận thức sâu sắc, mới mẻ về thời gian của tuổi trẻ cho thấy cái tôi cá nhân Xuân Diệu luôn mang đầy ám ảnh về sự trôi chảy của thời gian.

   Tưởng chừng như đã khép lại mạch cảm xúc nhưng sau nỗi buồn đó là tình yêu cuộc sống mãnh liệt, là sự hối thúc, giục giã chúng ta: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Ta đã từng bắt gặp nhịp điệu ấy, lời thúc giục ấy trong hai câu mở đầu bài thơ “Giục giã” của Xuân Diệu: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em em ơi! Tình non đã già rồi”. Đến đây tác giả muốn ôm trọn, muốn hòa mình tan chảy vào vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời để tận hưởng vĩnh viễn, mạch thơ đang băn khoăn, buồn tủi bỗng bừng lên, tươi vui với hình ảnh sống động:

    “Ta muốn ôm

    ...Cho no nê thanh sắc của thời tươi”

   Nếu ở hai khổ thơ đầu tác giả liên tiếp xưng tôi và sử dụng điệp từ “tôi muốn” thì đến với khổ thơ cuối nhà thơ đổi cách xưng hô từ tôi sang ta, với điệp từ “ta muốn” và sự đan xen câu thơ ba chữ “Ta muốn ôm” tạo nên sự tăng tiến càng lúc càng cao trào của nhịp điệu, hình ảnh thơ. Đổi cách xưng hô như vậy một mặt thay đổi hệ thống cảm xúc, một mặt thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Xưng tôi là để đối thoại với mọi người, xưng ta là để đối thoại với tất cả sự sống cho thấy khao vọng sống, khao khát yêu thương và tận hưởng mãnh liệt của thi nhân. Điệp khúc “ta muốn” với nhịp điệu nhanh, gấp và cách sử dụng động từ trạng thái tăng tiến từ mạnh đến nhẹ: ôm, riết, say, thâu như nhà thơ đang giục giã chính mình và giục giã chúng ta hãy cố gắng từng giây phút để tận hưởng sự ưu ái mà tạo hóa ban tặng cho cuộc đời của mỗi con người, để thấy rằng cuộc sống tươi đẹp và ý nghĩa vô cùng. Tuy nhiên vội vàng sống, vội vàng tận hưởng ở đây mang ý nghĩa tích cực vừa làm, vừa sống, vừa hưởng chứ không phải là lối sống thụ động chỉ biết hưởng thụ, trông chờ, ỷ lại vào người khác mà lười lao động, sống lối sống vị kỉ cá nhân. Đó là lối sống thực dụng, vô nghĩa không giống như ý thơ của thi sĩ bởi theo Xuân Diệu đó là: “Sống toàn tim! toàn trí! sống toàn hồn!/ Sống toàn thân! và thức nhọn giác quan”

   Từng khoảnh của tuổi trẻ cứ qua đi con người ta lại càng nuối tiếc cho điều đó để rồi nhà thơ phải thốt lên: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Đây cũng là một ý thơ rất độc đáo thể hiện cho ý muốn táo bạo của tác giả bật lên nỗi khát khao cháy bỏng, muốn chiếm trọn tất cả giữ lấy cho riêng mình mùa xuân của tuổi trẻ, muốn tận hưởng một cách nhục cảm chân thực nhất về hương vị cuộc đời.

   Bài thơ đã khép để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả đó là sự chiêm nghiệm về thời gian, về tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ muốn dành lời khuyên cho các bạn trẻ hãy biết quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời, hãy biết sống để yêu thương và cống hiến làm đẹp cho đời, góp công sức cho công cuộc phát triển đất nước đừng để tuổi trẻ qua đi một cách lãng phí, vô bổ. Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị của nó bởi ý thơ sâu sắc đến từng con chữ.

   Như vậy với sự cách tân nghệ thuật và sự thay đổi quan niệm mới mẻ, táo bạo cùng với trí tưởng phong phú, tác giả đã để lại cho đời một tác phẩm giàu triết lí sống, dạt dào quan niệm nhân sinh. “Vội vàng” là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống mãnh liệt khiến cho không ít người phải ngỡ ngàng về tuyên ngôn thời gian và tuổi trẻ của Xuân Diệu.

Phân tích bài thơ Vội vàng - mẫu 2

    Có lẽ danh xưng “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” mà nhà phê bình Hoài Thanh đã đặt cho Xuân Diệu sẽ không ai có thể thay thế. Xuân Diệu quả thực mang đến cho thơ ca thuở ấy, những năm 30 của thế kỉ XX, những điều vô cùng mới mẻ. Từ nguồn sống dạt dào hay quan niệm sống, quan niệm về tình yêu, tuổi trẻ… đến những hình thức nghệ thuật, đều hiện đại và có những cách tân mạnh mẽ, táo bạo. Sự ghi nhận ấy lại không phải chỉ ở một bài thơ mà cả một tập thơ, thậm chí nhiều tập thơ của ông được sáng tác trước Cách mạng tháng Tám, 1945. Trong đó phải kể đến tập thơ đầu tay Thơ Thơ, được in vào năm 1938, với thi phẩm Vội vàng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật cả đời thơ Xuân Diệu.

    Vội vàng ra đời vào năm 1938, lúc mà phong trào thơ mới đang phát triển ở đỉnh cao. Sở dĩ đây được coi là bài thơ xếp vào hàng hay nhất của Xuân Diệu, bởi nó không chỉ mang theo những hơi thở mới mẻ, hiện đại mà còn thể hiện một cái tôi đầy ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. “Vội vàng” không phải là một trạng thái là một thái độ sống gấp gáp, nhanh chóng. Bài thơ được viết bằng thể thơ tự do, gồm một câu đề từ Tặng Vũ Đình Liên và bốn khổ thơ với dung lượng khác nhau. Tuy nhiên người đọc nhận ra được mạch cảm xúc chủ đạo chính là một cái tôi yêu đời tha thiết, đắm say, cuồng nhiên nhưng vẫn đầy lo sợ trước sự trôi chảy vô tình, nghiệt ngã của thời gian. Cấu tứ bài thơ vì vậy trở thành một cuộc tranh biện say mê của nhà thơ trước cuộc đời.

    Tôi muốn tắt nắng đi

    Cho màu đừng nhạt mất.

    Tôi muốn buộc gió lại

    Cho hương đừng bay đi.

    Dễ nhận thấy cấu tứ của bài thơ được đặt ở ngay bốn dòng thơ năm chữ mở đầu. Xuân Diệu đã bắt nhịp Vội vàng bằng hai ước muốn: tắt nắng, buộc gió. Ấy là quy luật của tạo hóa, tự nhiên mà con người chúng ta không thể can thiệp hay tước đoạt được. Vậy mà điệp ngữ Tôi muốn…, tôi muốn… lặp lại đến hai lần, như thể đó là một niềm khao khát mãnh liệt đến nỗi ngông cuồng, phi lí. Nhưng khi biết mục đích của nhân vật trữ tình thì người đọc nhận ra việc tắt nắng, buộc gió ấy là để giữ màu đừng nhạt, giữ hương đừng bay. Đó chẳng phải là muốn ngưng đọng thời gian, muốn mọi thứ ngừng trôi chảy để tôi có thể đắm chìm, mãi mãi sống với hương sắc của cuộc đời hay sao? Hóa ra cái tôi ấy yêu cuộc sống này vô cùng mãnh liệt, nhưng dường như cũng có điều lo sợ nó vụt trôi đi mất. Bởi vậy, cấu tứ bài thơ từ đây được vận động theo hai cảm xúc ấy và cũng chính là lý do để “tuyên ngôn” về lẽ sống vội vàng.

    Tôi muốn tắt nắng, buộc gió ư? Chắc chắn cuộc đời này phải tươi đẹp lắm thì thi nhân mới thèm khát ngưng đọng mọi thứ như vậy. Chỉ cần bước sang khổ thứ hai, chúng ta sẽ thấy được sự lí giải về điều đó. Thay đổi sự dồn nén cảm xúc ở bốn dòng thơ đầu, khổ thơ thứ hai trải dài hơn với thể thơ tám chữ, giọng điệu có phần tha thiết, sôi nổi:

    Của ong bướm này đây tuần tháng mật

    …

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

    Điệp từ của, này đây vừa có nét hiện đại vừa như một lời mời chào, vẫy gọi để chúng ta cùng bước vào thế giới tươi đẹp của thiên nhiên cuộc sống. Bằng thủ pháp liệt kê ông dẫn dắt người đọc vào thế giới bằng những hình ảnh vô cùng giản dị, gần gũi nhưng lại ẩn chứa những nét đẹp mà chúng ta vô tình chẳng nhận ra. Những ong bướm,hoa đồng nội, lá cành tơ, yến anh, ánh sáng, buổi sớm, tháng giêng có gì mà xa lạ, nhưng dưới cặp mắt “xanh non, biếc rờn”, qua lăng kính của tình yêu và cảm nhận bằng mọi giác quan, nhà thơ đã mang tới một khung cảnh tuyệt diệu của thiên nhiên, cuộc sống. Những thứ quen thuộc ấy lại ở trong những trạng thái mơn mởn, tươi non, căng tràn sức sống và tràn ngập xuân tình nhất: ong bướm tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, lá cành tơ phơ phất, yến anh khúc tình si, ánh sáng chớp hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Một niềm yêu đời tha thiết, mãnh liệt đã khiến nhà thơ phát hiện ra một bữa tiệc ở giữa trần gian, chốn thiên đường ở ngay trên mặt đất. Tính triết lý nhân sinh cũng bởi vậy bộc lộ ngay ở sự khám phá này. Đâu phải đi đâu xa, đâu phải đến những nơi nào có cảnh đẹp, cũng đâu phải chỉ có chốn bồng lai tiên cảnh mới được thưởng thức cái đẹp như thế, chỉ cần căng đôi mắt, căng đôi tai, căng cả trái tim, sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn thì “thiên đường” ở ngay trước mắt. Thời khắc mà mỗi chúng ta cần tận hưởng là mùa xuân của tự nhiên, là tuổi trẻ, tình yêu của cuộc đời, xin đừng bỏ lỡ. Đó chính là lý do vì sao mà ông muốn “tắt nắng, buộc gió”!

    Nhưng tôi đâu chỉ yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mà còn yêu con người. Và tình yêu với con người ấy đã giúp nhà thơ đưa ra một quan điểm thẩm mĩ rất độc đáo. Vốn dĩ xưa thiên nhiên mới là chuẩn mực của cái đẹp, nhưng nay Xuân Diệu lại lấy con người mới là thước đo của mọi cái đẹp. Bằng việc so sánh: Ánh sáng chớp hàng mi/ tháng giêng ngon như một cặp môi gần, người đọc nhận ra sự khác lạ ấy. Ánh sáng, một thứ thuộc về tự nhiên, giờ đây được ví như cái chớp mắt của một nàng thiếu nữ; tháng giêng cũng được mĩ vị hóa “ngon” như một cặp môi gần của đôi tình nhân. Xuân Diệu thực sự đã tạo nên một quan niệm về cái đẹp nhưng đầy tính nhân văn, có ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Phải chăng với thi nhân, con người mới là điều tuyệt diệu, là sản phẩm tuyệt vời nhất của tạo hóa?

    Thiên nhiên đẹp, cuộc sống đẹp, con người đẹp… vậy mà đời người chẳng thể mãi mà gắn bó được. Nên:

    Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa,

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

    Đúng, cuộc đời như thế sao mà không sung sướng cho được. Nhưng không thể “tắt nắng, buộc gió” mà mãi đắm chìm trong ấy, nên mới phải vội vàng. Câu thơ với dấu chấm giữa dòng làm ngắt mạnh cảm xúc, muốn níu giữ tất cả chỉ còn cách sống vội vàng từng giây từng phút. Nhân vật trữ tình chẳng chờ tới mùa hạ, mà ngay ở mùa xuân thôi cũng đã thấy nhớ mùa xuân rồi. Đọng lại cả khổ thơ vẫn là niềm yêu thương cuộc sống rất sục sôi, rạo rực. Đâu đó chúng ta nhận ra ánh mắt sung sướng nhưng đầy gấp gáp của thi nhân để chạy đua với thời gian. Bởi không nhanh sẽ không kịp và không thể để tận hưởng cuộc sống này.

    Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua

    …

    Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa.

    Khổ thơ mở ra một cuộc tranh biện vô cùng độc đáo, thời gian có thực sự đang trôi chảy, có thực sự nghiệt ngã mà cuốn phăng mọi thứ ra đi? Bằng nghệ thuật đối lập (xuân non – xuân già, tới – qua, rộng – chật, tuần hoàn – chẳng hai lần…) và hàng loạt các từ ngữ có tính tranh luận cao như: nghĩa là, nhưng, nói làm chi, nếu, nên, nhà thơ đã chỉ ra quy luật tuyến tính của thời gian: một đi không trở lại. Ông say sưa trong giọng điệu trầm buồn, có phần run rẩy. Làm gì có kiểu thời gian như “bóng bích câu qua cửa sổ”, cũng làm gì có kiểu chết đi rồi sẽ lại được tái sinh, mà thời gian nghiệt ngã, vô tình lắm. Mỗi phút giây trôi đi sẽ là mất mát. Có thể thời gian của tự nhiên là vô hạn, nhưng đời người lại hữu hạn, mà tuổi trẻ lại càng ngắn ngủi, ít ỏi vô cùng. Quan niệm về thời gian như thế của Xuân Diệu không hề cảm tính, cũng không theo lối thi vị hóa mà đầy khách quan và biện chứng. Chỉ có thể là một tâm hồn quá nhạy cảm, quá yêu đời mới lo lắng, sợ sệt như thế trước quy luật của thời gian. Bởi vậy cho nên ông nhìn đâu cũng thấy chia lìa, tan nát. Những hình ảnh thiên nhiên, sự sống được nhân hóa: mùi tháng năm rớm vị chia phôi, núi sông than thầm tiễn biệt, con gió xinh thì thào, hờn dỗi phải bay đi, chim ngập ngừng đứt tiếng reo thi trước độ phai tàn sắp sửa là những dự cảm đầy mất mát, có phần bi thương trước sự trôi chảy của thời gian. Đâu đâu cũng ngấm mùi, ngấm vị của sự tan tác, đứt gãy, xa rời. Bởi vậy sao mà không cảm thấy tiếc nuối, thấy hụt hẫng, bâng khuâng cho được. Lời thơ vang lên như một niềm bi phẫn, bế tắc: chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa! Xuân Diệu hiện thực thế, đời thường thế… nhưng cũng không tránh khỏi được sự sợ hãi, bàng hoàng trước thời gian. Vậy nếu không “tắt nắng”, không “buộc gió” thì phải làm sao để màu không nhạt, hương không bay? Chỉ còn cách vội vàng để chống lại quy luật khắc nghiệt ấy của thời gian mà thôi.

    Vội vàng thực sự là một bài thơ của nhiều cảm xúc. Có chút dồn nén ở khổ đầu, có cái tha thiết, say mê ở khổ hai, có cái day dứt, bâng khuâng ở khổ ba và ở khổ bốn sẽ là sự sục sôi, khí thế, nhiệt huyết. Sự linh hoạt trong cách bộc lộ cảm xúc của bài thơ đều bắt nguồn từ triết lý sống vội vàng. Không thể níu giữ thời gian, cũng không thể đứng im mà nhìn thời gian tàn phá mọi thứ, chỉ còn cách vội vàng. Cho nên khổ cuối mở ra một lời giục giã đầy hối hả:

    Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.

    …

    - Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.

    Đi tức là sống, mà phải mau đi tức là sống nhanh lên, gấp gáp lên khi mùa chưa ngả chiều hôm, khi mọi thứ còn ở độ tươi đẹp nhất, trẻ trung nhất. Xuân Diệu giục người ta như thế. Giờ đây không còn là tôi muốn là khát vọng của cá nhân, mà là ta muốn, tức là của tất cả mọi người. Ta muốn ôm, riết, say, thâu, thậm chí là cắn để chếnh choáng, đã đầy, no nê mọi thứ của cuộc sống này. Hàng loạt các động từ mạnh theo cấp độ tăng tiến đã diễn tả vừa là cách sống vừa là cảm xúc có phần khó kiềm chế được của nhân vật trữ tình. Xuân Diệu mang tới một cách sống vội vàng thật sục sôi, mãnh liệt, vồ vập và hết mình. Nhưng thi nhân cũng không cho rằng chúng ta lúc nào cũng phải căng lên để sống như vậy, mà cần phải biết sống vội vàng vào đúng thời điểm. Đó là lúc sự sống mới bắt đầu mơn mởn, lúc mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, một cái hôn nhiều, và non nước và cây và cỏ rạng… và đặc biệt là xuân hồng. Nhà thơ chọn những khoảnh khắc ấy chính là lúc mỗi chúng ta đáng sống nhất, sống hết mình, nhiệt huyết nhất để không bỏ lỡ một chút vẻ đẹp nào của cuộc sống. Hình ảnh xuân hồng chính là biểu tượng cho cuộc sống như thế, mà nhà thơ không ngần ngại sử dụng từ ngữ có phần khá thô để biểu đạt là cắn. Nhưng ai cũng hiểu, với Xuân Diệu sự tham lam, cuồng nhiệt đến mê dại với cuộc sống thì ngay cả từ ngữ ấy cũng chưa đủ để diễn tả cảm xúc yêu cuộc sống của ông.

    Vội vàng khép lại với một hình ảnh, nhân vật trữ tình đang muốn thỏa mãn với cảm giác yêu đời của mình. Đó cũng là một ấn tượng đặc biệt mà bài thơ để lại trong lòng độc giả. Dẫu trong bài vẫn có một niềm day dứt, lo âu trước sự trôi chảy của thời gian nhưng người ta không thấy bài thơ dừng lại bằng một cảnh tượng bi quan, chán nản. Ngược lại, nỗi gieo vui ở cả khổ cuối cùng cho thấy, Xuân Diệu vẫn vô cùng yêu đời, trân trọng cuộc sống và lạc quan với những phút giây của thực tại. Bởi vậy, Vội vàng ra đời ở vào thời điểm ấy, nỗi băn khoăn về cuộc sống trong thơ ca vẫn nhiều, nhưng ý nghĩa của bài thơ về quan niệm sống, quan niệm cuộc đời, tuổi trẻ, tình yêu và cả sự nhiệt huyết, hết mình với cuộc sống vẫn còn nguyên vẹn giá trị mãi mãi sau này.

Phân tích bài thơ Vội vàng - mẫu 3

    "... Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa

    Tháng giêng ngon như một cặp môi gần...".

    (...)Ta muốn ôm

    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn...".

    Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, nhạc điệu, vần điệu "Vội vàng" cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng ta, tình yêu đời, ÿêu sống như tát mãi không bao giờ vơi cạn... Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ... như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. "Vội vàng" là bài thơ độc đáo nhất, "mới nhất" của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập "Thơ thơ" (1933-1938) -đoá hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh một tài thơ thế kỉ.

    Bài thơ "Vội vàng" nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một thời xuân xanh. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.

    Nói về bài thơ "Vội vàng", Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết:

    "Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống".

    Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên "đồng nội xanh rì", của lá "cành tơ phơ phất". "Tuần tháng mật" của ong bướm. "Khúc tình si" của yến anh. "Và này đây ánh sáng chớp hàng mi". Chữ "này đây" được năm lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình, xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng "tắt nắng đi" và "buộc gió lại". Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.

    Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc "thần Vui hằng gõ cửa". Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, "ngon như cặp môi gần". Một chữ "ngon" chuyền đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa mới lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.

    Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi - cái tuổi thanh niên bừng sáng. Nhưng thi sĩ đã "vội vàng một nửa", một cách nói rất thơ - chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn "vội vàng":

    "Tháng giêng ngon như cặp môi gần

    Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa

    Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân."

    Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã "vội vàng một nửa", cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.

    Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thòi gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái "lượng trời" cho một đời người chỉ có một thời xuân xanh mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:

    "Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

    Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

    Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

    Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

    Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

    Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

    Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!".

    Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới/ qua; non / già; rộng / chật; hoàn / bất phục hoàn; vô hạn / hữu hạn - để khẳng định một chân lí, triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải biết quý trọng tuổi xuân.

    Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi...

    Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn "chia phôi", hoặc "tiễn biệt", nên phải "hờn" vì xa cách, phải "sợ" vì "độ phai tàn sắp sửa". Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương "vội vàng" của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sống nơi "vườn trần" đều ít nhiều mang "bi kịch" về thời gian:

    "Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

    Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt".

    Cũng là "gió", là "chim"... nhưng gió khẽ "thì thào" vì "hờn", còn "chim" thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì "sợ"! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời gian:

    "Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

    Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

    Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

    Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?".

    Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm", nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

    "Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa...

    Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm".

    Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":

    "Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,

    Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên",

    (Bài số 3)

    "Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm",

    (Bài số 7)

    Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Thật yêu đời, thật ham sống.

    Mở đầu bài thơ là cái "tôi" hăm hở "tôi muốn tắt nắng đi". Kết thúc bài thơ là "ta", là mọi tuổi trẻ. Một sự hoà nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: "Ta muốn ôm", "Ta muốn riết..., Ta muốn say..., Ta muốn thâu...":

    "Ta muốn ôm

    Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ;

    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

    Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

    Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,

    Và non nước, và cây, và cỏ rạng".

    Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật "vắt dòng" với ba từ "và" đồng hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng... đều là đối tượng, là nỗi niềm khao khát của thi nhân:

    "Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

    Cho no nê thanh sắc của thời tươi,

    Hỡi xuân hồng, tả muốn cắn vào ngươi!".

    Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. "Vội vàng" thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ "Vội vàng" ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống "Vội vàng" như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

    Bài thơ "Vội vàng" cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. "Vội vàng" tiêu biểu nhất cho " Thơ mới", thơ lãng mạn 1932-1941.

    Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:

    - "Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"

    -"Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

    Em, em ơi! Tình non sắp già rồi:..".

    Giục giã

Phân tích bài thơ Vội vàng - mẫu 4

    Xuân Diệu được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Sự mới mẻ, độc đáo đó đã được thể hiện ngay từ tập thơ đầu tay “Thơ thơ”. Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của tập thơ này. Tác phẩm thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, bên cạnh đó còn là quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa từng có trong truyền thống văn học dân tộc.

    Bài thơ trước hết thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, say đắm với giọng điệu sôi nổi, tha thiết:

    Tôi muốn tắt nắng đi

    Cho màu đừng nhạt mất

    Tôi muốn buộc gió lại

    Cho hương đừng bay đi.

    Ước muốn của thi nhân thật khác thường và vô cùng mãnh liệt. Điệp cấu trúc “Tôi muốn …cho” kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp cho thấy khao khát tắt nắng, buộc gió, biến đổi quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Bởi ông muốn lưu giữ khoảnh khắc đẹp đẽ của hiện tại, vậy chẳng còn cách nào khác chính là ngăn bước đi vội vã của thời gian.

    Vậy, vì sao Xuân Diệu lại có ước muốn tha thiết, cháy bỏng đến như vậy? Đó là bởi thiên nhiên trần thế quá đỗi đẹp đẽ. Ông lắng long mình, mở mọi giác quan để cảm nhận vẻ đẹp toàn mĩ của tạo vật: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì, canh tờ phơ phất, ánh sáng,… Mọi hương vị màu sắc, âm thanh, ánh sáng hòa quyện với nhau một cách tuyện mĩ và đầy tình tứ. Mỗi ngày vạn vật lại mang đến cho con người một bữa ăn thịnh soạn để thưởng thức, ngắm nhìn. Xuân Diệu có quan niệm vô cùng mới mẻ, tiến bộ: cuộc sống xung quanh ta là đẽ đẹp nhất, tuyệt diệu nhất. Chốn thần tiên không ở đâu xa mà ở chính trần gian này.

    Bức tranh đó không chỉ là thiên nhiên đẹp đẽ mà đó còn là bức tranh tình yêu. Mọi sự vật trong không gian ấy đều có đôi, có cặp: ong – bướm, hoa trong đồng nội, lá trên cành tơ,… Vạn vật đều chìm đắm trong hơi men tình yêu. Và để đến cuối tác giải khái quát: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Câu thơ sử dụng hình ảnh so sánh độc đáo, phép chuyển đổi cảm giác, tháng giêng như cặp môi căng mọng của người thiếu nữ, đầy tình tứ, xuân thì. Mùa xuân vốn trừa tượng, nhưng dưới ngôn ngữ của Xuân Diệu đã được hữu hình hóa. Nhưng mùa xuân đẹp là vậy, lòng ông vẫn đầy băn khoăn: “Tôi xung sướng. Nhưng vội vàng một nửa/ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Tôi vừa sung sướng vì được tận hưởng vẻ đẹp của đất trời nhưng lại vừa vội vàng, lo lắng vì sự chảy trôi của thời gian.

    Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

    Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

    Câu thơ ngắt nhịp 3/2/3 diễn tả bước đi chậm mà hết sức lạnh lùng của thời gian, biện pháp điệp cấu trúc với kiểu câu định nghĩa “nghĩa là” tác giả nhấn mạnh chiều đi tuyến tính của thời gian. Đây là quan niệm mới mẻ so với văn học trung đại, văn học cổ cho rằng thời gian là tuần hoàn: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai”. Còn đối với Xuân Diệu thời gian chảy trôi một đi không quay trở lại. Bên cạnh đó câu thơ còn sử dụng những cặp từ đối lập: đương tới với đương qua, còn non với sẽ già nhấn mạnh dòng thời gian một đi không trởi lại. Mùa xuân đi qua cướp đi tuổi trẻ; lòng người vô hạn muốn đón nhận cả thiên nhiên vạn vật nhưng “lượng trời cứ chật” “xuân tuần hoàn” còn “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Các cặp từ đối lập đã cho thấy sự hữu hạn của đời người và sự mênh mông, vô hạn của trời đất. Thời gian trôi qua lấy đi tuổi trẻ, cuộc đời mỗi người, vì thế nhân vật tôi phải sống nhanh, sống gấp để tận hưởng mọi tinh hoa của trời đất:

    “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

    Ta muốn ôm

    Cả sự sống mớt bắt đầu mơn mởm

    …

    Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào người”

    Đại từ đổi từ tôi sang ta, kết hợp với hàng loạt động từ mạnh được sắp xếp theo chiều tăng tiến: ôm, riết, say, thâu cho thấy khát khao tận hưởng bằng tất cả các giác quan của Xuân Diệu. Liên từ và, cho được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh vào sự ăm ắp, thịnh soạn của bàn tiệc mùa xuân, bàn tiệc cuộc đời dành cho con người. Những từ chếnh choáng, đã đầy, no nê cho thấy sự thỏa mãn đến tận cùng của nhân vật trữ tình trước bàn tiệc cuộc đời. Khép lại bằng khao khát: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”. Lời gọi xuân hồng khiến cho mùa xuân không còn vô hình, trừu tượng mà trở nên hữu hình, như một sinh thể sống động. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, xuân, đến xuân hồng và muốn cắn cho thấy khao khát, mong muốn được tận hưởng trọn vẹn nhất hương vị cuộc đời.

    Tác phẩm sử dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật, giọng thơ đan xen khi hồ hởi khi tiếc nuối. Bài thơ còn thể hiện quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ, hạnh phúc: Thời gian một đi không trở lại, tuổi trẻ là phần đẹp đẽ quý giá nhất của đời người, vì vậy mỗi chúng ta cần sống vội vàng từng giây từng phút.Đây là triết lí sống tích cực của Xuân Diệu.

voi-vang.jsp

Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học