Top 30 Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (cực hay)
Tổng hợp các bài văn Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 1)
- Dàn ý Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 2)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 3)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 4)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 5)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 6)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 7)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 8)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 9)
- Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 10)
- Phân tích Bình Ngô đại cáo (dàn ý, 30 mẫu)
Bài giảng: Đại cáo bình ngô - Phần 2: Tác phẩm - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 1
“Bình Ngô đại cáo” tác phẩm nổi tiếng của chính trị gia, nhà văn Nguyễn Trãi. Tác giả soạn thảo bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, nhằm thay lời Lê Lợi tuyên cáo việc giành chiến thắng giặc Minh. Bài cáo không chỉ khẳng định sự độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là bản án đanh thép, lên án tội ác không thể dung thứ của bè lũ bán nước và cướp nước. Cùng phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo để thấy rõ hơn điều đó!
Ở đoạn đầu, tác giả tự hào, hãnh diện, bố cáo với đất trời, thiên hạ về lịch sử oai hùng dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa, lãnh thổ của các triều đại Bắc Nam, mỗi nơi hùng cứ một phương. Ông cho rằng người hào kiệt nơi nào cũng có, thời nào cũng có. Cớ sao phải xâm chiếm, cướp bóc lẫn nhau? Nhờ lối dẫn dắt đó mà sang đến đoạn hai, tác giả đã trình bày ngay lí do dẫn đến cuộc binh đao giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo mới thấy rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn ngủi, nhưng tác giả đã lột tả được toàn bộ bức tranh xã hội rối ren lúc bấy giờ. Đó là những người lãnh đạo, đứng đầu đất nước đang bị thôn tính, nhu nhược, tham lam, chia bè chia phái, khiến lòng dân oán hận. Trong khi đó, bên ngoài giặc Minh lăm le dòm ngó bấy lâu thừa cơ gây loạn. Chính sự nhiễu nhương kết hợp với bè lũ bán nước và cướp nước đã ép buộc Đại Việt vào thế phải binh đao. Nguyễn Trãi là nhà chính trị nên một lập luận ông nêu đều vô cùng sắc bén và hợp lý.
Đoạn thơ này cho thấy rõ, âm mưu xâm lược của giặc Minh và bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Vì lí do đó mà Đại Việt lâm nguy. Lũ bán nước, cướp nước ra sức hành hạ dân đen, gây ra bao tội lỗi. Sau khi đánh chiếm được nước ta, giặc Minh đô hộ Đại Việt trong suốt hai mươi năm với những chính sách vô cùng hà khắc, tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…………………
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến những cảnh xót xa của nhân dân, chính trị gia có trái tim nhân ái Nguyễn Trãi đã khẳng khái khẳng định tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Câu thơ như vừa thể hiện nỗi đau thấu tim gan của tác giả vì thương dân, vừa như lời đay nghiến quân giặc. Những hành vi bạo tàn của chúng không phải là do con người gây ra nữa. Chúng dối trời, lừa dân. Chúng không chỉ vơ vét của cải, sức người sức của mà còn hủy hoại cả môi trường, tàn phá cả những con côn trùng cây cỏ. Hơn thế, chúng thẳng tay tàn sát dân đen, những con người vô tội, thiện lương. Những con người quanh năm gắn bó ruộng đồng, hiền từ, đức độ. Ấy vậy mà chúng cũng giày xéo không tha. Với lối liệt kê hàng loạt, liên tiếp những hành động bào tàn của giặc, tác giả như đang tuôn trào bao cảm xúc giận giữ cảm thù. Xúc cảm ấy cũng là xúc cảm chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Chỉ muốn vùng lên để đấu tranh, chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, càng thấy sự khéo léo trong cách sử dụng biện pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa đặc tả để vạch mặt tội ác thâm độc của quân cướp nước. Có sống giữa thời ấy, có lớn lên trong cảnh bạo ngược ấy mới thấy rõ quân giặc chẳng khác gì thú vật, coi mạng người như cỏ rác.
Một lần phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo là một lần độc giả cảm thấy rùng rợn trước cảnh tượng tang của người dân Đại Việt năm xưa. Tưởng như chỉ là cảnh trong các bộ phim cổ trang, nhưng hóa ra lại là sự thật hiển nhiên, lịch sử ghi chép.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha”
Sự độc ác tày đình của quân xâm lược không chỉ khiến dân chúng oán thán mà còn khiến cả thiên nhiên phẫn nộ, đến đại dương cũng không rửa sạch mùi dơ bẩn, đến đất trời cũng không thể dung tha. Với lối dùng vế đối cân xứng,”độc ác- dơ bẩn”, “trúc Nam Sơn- nước Đông Hải”, “lòng người- trời đất”… tác giả như càng nhấn mạnh thêm sự sai trái của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông mang cả những vật vô tri vô giác là nhiên nhiên vào để khẳng định việc trà đạp lên mạng sống của người khác là tội không thể tha. Ông càng chứng tỏ rằng, không riêng gì con người mà mỗi loài sinh ra trong cõi đời đều có quyền được sống.
Có thể nói, khi phân tích đoạn 2 Bình ngô đại cáo, người đọc như đang xem một bộ phim lịch sử thấm đẫm máu và nước mắt. Ở đó có những đau thương mất mát của dân tộc mà không gì có thể bù đắp được. Nhưng độc giả cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của nhân dân Đại Việt. Với lời văn đanh thép, hùng hồn, tuôn trào trong từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án gắt gao tội ác của quân giặc.
Dàn ý Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo
Dàn ý Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 1)
1. Mở bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Giới thiệu sơ lược về tác giả,tác phẩm, đoạn cần phân tích
- Nêu qua hoàn cảnh lịch sử tạo nên tác phẩm
2. Thân bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
Có thể khẳng định đoạn đầu là tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ là cơ sở để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc. Tư tường này xuất phát từ thực tiễn tình hình của đất nước được Nguyễn Trãi khái quát sâu sắc như một chân lý. Chân lý đó khẳng định nhân nghĩa chính là chống quân xâm lược, có như vậy mới vạch trần được luận điệu xảo trá của chúng được tác giả nêu lên ở đoạn hai. Đoạn hai của tác phẩm là bản cáo trạng về tội ác của Giặc Minh. Tố cáo những chủ trương cai trị tàn sát của giặc Minh:
- Tàn sát người vô tội
- Bóc lột dã man, đánh thuế, phu phen,…
- Hủy diệt cả môi trường sống
⇒ Tội ác tày trời, một lũ giặc vô nhân đạo
- Có những tội ác của kẻ thù thì cái nhân nghĩa mà tác giả đưa ra mới càng thể hiện được tính đúng đắn của nó. Bởi lẽ:
- Độc lập chủ quyền của chúng ta có tính chất thiên nhiên, từ trước, vốn có
- Khẳng định chủ quyền như bao dân tộc khác là chúng ta có phong tục riêng, lịch sử riêng, hào kiệt trước này chưa bao giờ thiếu.
- Nền văn hiến của ta thì đã có từ hàng ngàn năm lịch sử: đây là yếu tố cơ bản để xác định chủ quyền dân tộc. Bất kể quân xâm lược nào cũng đều tìm cách để phủ định sự thật hiển nhiên này.
- Nguyễn Trãi đã vạch trần luận điệu bịp bợm của giặc và chỉ rõ âm mưu cướp nước ta của chúng. Chúng lược chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là để cướp nước ta
- Tội ác mà chúng gây ra với chúng ta là vô cùng độc ác và dã man.
- Trước nỗi khổ, sự khó khăn cùng cực của nhân dân, tác giả vô cùng đau đớn, cả bài là sự căm giận tội ác của địch, đồng cảm và xót xa trước những đau thương mà nhân dân ta phải chịu đựng.
-Nghệ thuật so sánh: Tội ác của giặc cao tựa núi Nam Sơn; sự dơ bẩn của giặc nhiều bằng nước Đông Hải. Dùng cái vô hạn nói cái vô hạn, tội ác của chúng những cái vô cùng cũng không thể miêu tả, không thể chứa đựng được hết.
3. Kết bài Phân tích đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo
- Nêu lại khái quát ý nghĩa của tác phẩm và cảm nhận của bản thân
- Khẳng định lại tội ác không thể chối cãi của giặc Minh và sự tài tình của Nguyễn Trãi trong việc vạch tội kẻ thù khẳng định chủ quyền cho dân tộc.
Dàn ý Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo (mẫu 2)
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm Đại cáo bình Ngô và nội dung đoạn trích.
II. Thân bài:
Tác giả vạch trần tội ác của giặc Minh với một trình tự logic:
- Tác giả chỉ rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh
- Vạch trần luận điệu “phù Trần diệt Hồ” của giặc Minh (việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên cớ để giặc Minh thừa cơ gây họa, mượn gió bẻ măng)
- Âm mưu muốn thôn tính đất nước ta vốn đã có sẵn, có từ lâu.
- Tác giả vạch trần những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh
- Thu thuế khóa nặng nề.
- Vơ vét sản vật, bắt chim trả
- Ép người làm những việc nguy hiểm (dòng lưng mò ngọc, đãi cát tìm vàng,…).
- Tác giả tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc.
- Hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội (nướng dân đen, vùi con đỏ,…)
- Hủy hoại cả môi trường sống (Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ)
=> Đây là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, nêu chủ đề của đoạn trích.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 2
Nếu như đoạn 1 đề cao sự nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền dân tộc thì đoạn 2 của tác phẩm Bình ngô đại cáo chủ yếu tố cáo những tội ác của giặc Minh trong thời gian chúng đô hộ nước ta.
Tác giả đề cập đến thời gian nhà Hồ suy yếu, giặc Minh lợi dụng danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ” gây chia rẽ trong nước, gây bạo loạn và mục đích cướp đất nước ta.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ
Bọn gian ta còn bán nước cầu vinh”
Giặc ngoại xâm thật thâm độc, chính sách cai trị tàn bạo, vô nhân tính chẳng khác nào hành động diệt chủng như giết hại nhân dân “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”, ra sức thu thuế khóa mục đích chiếm càng nhiều tài sản càng tốt, sử dụng con người khai thác tài nguyên đến nguy hiểm tính mạng “ép xuống biển mò ngọc” đối mặt với mối nguy từ các cá mập, thuồng luồng, “vào núi đãi cát tìm vàng” nơi chốn rừng thiêng nước độc và rất nhiều người đã bỏ mạng.
Không chỉ với con người mà chúng còn “Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ” phá hoại môi trường nặng nề.
Tất cả đều khiến rất nhiều gia đình ly tán chia lìa, xã hội tan thương, nhân dân rơi vào tình cảnh túng quẫn cùng cực.
Nguyễn Trãi trong đoạn 2 Bình ngô đại cáo đã tố cáo tội ác man rợ của giặc Minh nhiều đến nỗi “trúc Nam Sơn không ghi hết tội” “nước Đông hải không rửa sạch mùi”, qua đó tỏ thái độ căm phẫn, uất ức bọn xâm lược đó cũng chính là nỗi đau nhân dân tầng lớp nghèo khổ trong xã hội. Chứng kiến những điều tàn bạo, phi đạo lý đó lẽ nào trời đất dung thứ cho chúng?
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Đoạn 2 Bình ngô đại cáo chính là lời tố cáo mạnh mẽ sự tàn bạo, độc ác mà giặc Minh đang giày xéo trên đất nước. Khi có sự áp bức chắc chắn sẽ có đấu tranh, khởi nghĩa và có thể khẳng định chính nghĩa chắc chắn sẽ giành thắng lợi sau cùng.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 3
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn rực cháy và thổi bùng trong ông, lớn lên trong thời kì nước mất nhà tan do đó mà đã tôi luyện và hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả và đặc biệt vạch trần tội ác của kẻ thù. Điều đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô đại cáo, mà điển hình ở đây là đoạn 2 của tác phẩm. Nguyễn Trãi đã tố cáo, lên án những tội ác mà quân Minh xâm lược đã gây ra cho ta. Bình Ngô đại cáo được coi là một áng thiên cổ hùng văn nổi tiếng lẫy lừng về việc ghi chép tội ác của giặc Minh. Tác phẩm được viết khi quân dân ta giành thắng lợi trong cuộc chiến với quân Minh, điều đó cho thấy rằng tình yêu dành cho đất nước luôn đặt lên hàng đầu và sự căm thù giặc được thể hiện rõ nét trong bản cáo trạng:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Quân Minh khi xâm lược nước ta đã nghĩ ra những mưu kế đê hèn, lợi dụng tình thế việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần để thừa thế xông lên xâm lược vào nước ta. Chính tình thế loạn lạc nên quân Minh đã lợi dụng điều đó để thực hiện những âm mưu từ lâu đã định trước. Không chỉ ngày một ngày hai, quân Minh đã thực hiện chính sách khai phá nước ta trong gần hai mươi năm trời. Mục đích của chúng là muốn xóa bỏ những gì mà đất nước ta có là văn hóa, là lịch sử nước nhà. Ngay cả những đứa trẻ tuổi cắp sách đến trường mà chúng cũng không buông tha, điều đó cho thấy rằng quân Minh vô cùng tàn độc và hung bạo.
Nhưng quân dân ta chưa bao giờ đầu hàng, những tháng ngày dài đằng đẵng, có mệt mỏi, có gục ngã nhưng vẫn đứng lên để chống lại kẻ thù. Quân Minh muốn cai trị đất nước ta, chúng muốn thay đổi chính sách và muốn đất nước ta phải phục thù. Càng về sau, sự tàn ác của quân Minh càng được thể hiện rõ ở việc chúng bắt đầu bóc lột sức người, thậm chí còn đánh đập, tàn phá luôn cả thiên nhiên.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Những người dân vô tội nhỏ bé thấp hèn luôn phải chịu sự áp bức bóc lột nặng nề của quân giặc. Họ càng nhỏ bé, càng không có chỗ đứng trong xã hội thì càng bị quân Minh tấn công, áp bức. Tội ác mà quân giặc gây ra ngay cả đất trời cũng không thể dung tha. Hai câu thơ như khẳng định mạnh mẽ một lần nữa những tội ác mà quân Minh gây ra và đây cũng chính là lời cáo trạng về tội lỗi của quân xâm lược.
Trúc Nam Sơn, nước Đông Hải đã được Nguyễn Trãi nhắc đến trong đoạn trích để nhấn mạnh tội ác của quân Minh:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Quân xâm lược chỉ nhìn thấy cái trước mắt mà không nghĩ về hậu quả sau này. “Trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải” đã được Nguyễn Trãi nhắc đến để khẳng định tội ác của quân Minh to lớn chẳng thể nào liệt kê ra hết được. Chúng không bao giờ biết yêu thương và có tình yêu thương trọn vẹn, ngay cả con người mà chúng cũng có thể hủy hoại thì thiên nhiên xung quanh đã là gì. Chúng tham lam, ích kỷ để rồi có những gia đình đã không còn trọn vẹn các thành viên.
Chúng khiến cho bao người phải khổ sở, đất nước phải sống trong sự loạn lạc ngày qua ngày mà không phút nào được bình yên. Nguyễn Trãi đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật liệt kê cũng nhiều hình ảnh, dẫn chứng sinh động để người đọc thấy được tội ác tày trời của quân Minh đối với nước ta.
Hai câu kết của đoạn trích là một lời răn đe mạnh mẽ:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của quân Minh gây ra cho đất nước ta đếm không xuể, chính chúng đã khiến ta rơi vào cảnh nước mất nhà tan nên không bao giờ có thể tha thứ. Với giọng văn đanh thép, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được sự uất hận không chỉ của tác giả mà còn của nhân dân ta ở thời kỳ đó dành cho quân Minh.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã mang đến một ý nghĩa sâu sắc về tình yêu nước của dân tộc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốc liệt nhất, dân tộc ta đã không bao giờ gục ngã, họ đã cùng nhau đoàn kết để chiến thắng kẻ thù, mang lại vẻ vang cho nước nhà.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 4
Được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 sau Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm xuất sắc mà ở đó ta có thể thấy được tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, đó là tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, lòng căm thù quân giặc sâu sắc. Dựa trên việc khẳng định chân lý chủ quyền dân tộc cùng với tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", tác phẩm đã mang đến cho người đọc những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài cáo làm 4 phần với 4 nội dung chính, trong đó có một phần phản ánh sự tàn ác của giặc Minh những năm tháng đô hộ hộ nước ta là phần có vai trò quan trọng trong bài cáo, cần lưu tâm để càng thấm thía hơn nỗi đau mất nước những năm tháng đã qua.
Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán hận ngập trời, "Bọn gian tà bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.
Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 năm trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.
"Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt."
Nhưng những thứ quý hiếm ấy có phải đâu dễ tìm, người xuống biển sâu chết không thấy xác, kẻ lên rừng, vào núi thì hùm beo rình rập. Đã thế chúng còn bắt nhân dân ta phải tìm cả những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy có khi chẳng bắt được mà còn đi nhầm cả vào bẫy thú vật. Ôi thật xót xa cho cảnh khốn khổ tột cùng! Hậu quả để lại là môi trường liên tiếp bị hủy hoại tàn phá, chim muông cây cỏ cũng chẳng còn chỗ nương thân, phụ nữ bỗng trở thành kẻ góa bụa, gia đình đang yên ổn canh cửi nay cũng thuận đà tan tác cả, còn đâu chốn làng quê yên bình, đẹp đẽ, còn đâu tiếng người cười nói dẫn nhau ra đồng, mất hết rồi.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán", quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 5
Nguyễn Trãi là một trong ba danh nhân văn hóa của dân tộc được UNESCO công nhận, đồng thời là nhà quân sự lỗi lạc, nhà tư tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Ông sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước rối ren, loạn lạc – nhà Trần suy yếu, nhà Hồ nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lược, hoàn cảnh ấy càng thổi bùng lên tinh thần yêu nước vốn đã thấm nhuần trong tư tưởng truyền thống xuất phát từ dòng tộc. Sự cống hiến của Nguyễn Trãi lớn lao không tả, chẳng những là mưu sĩ với thần cơ diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông cũng góp phần quan trọng vào sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thái bình cho nước nhà, điển hình là hai tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Đại cáo bình Ngô”. Đặc biệt, tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc có giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn học. Không những là áng thiên cổ hùng văn về tư tưởng tự chủ tự cường của dân tộc mà còn là bản cáo trạng luận tội giặc Minh xâm lược, chỉ rõ sự độc ác nhơ bẩn của chúng:
“…Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Đoạn hai của tác phẩm với những lý luận sắc sảo, đanh thép, chứng cứ xác thực, đã vạch mặt lũ ngoại xâm với mưu mô, thủ đoạn dơ bẩn và sự tàn bạo, độc ác của chúng.
Bằng biện pháp phóng đại, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ những điều bại hoại nhân nghĩa, luân lí mà giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình tượng “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Thực vậy, tội ác chúng gây ra nhiều không kể xiết đến nỗi ghi tạc chúng lên thân trúc Nam Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm phẫn lên đến tột độ của nhân dân đối với sự bạo ngược của quân xâm lược. Chẳng những quá đỗi tàn bạo, giặc Minh còn thi hành những chính sách hết sức nhơ bẩn, đê hèn và quỷ quyệt nhằm bẻ gãy ý chí dân tộc, tinh thần chiến đấu và âm mưu biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa dân tộc ta thành người Hán và vĩnh viễn xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính vì lẽ ấy mà tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một phần lớn trong tác phẩm để đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng hùng hồn nhằm luận tội lũ giặc tàn bạo và xảo quyệt.
Chính sử Việt Nam chép rất rõ về những chính sách cai trị vô cùng thâm độc trong ngót hai mươi năm đô hộ nước ta, song phần nhiều đều biên soạn dựa theo những bản ghi chép của Nguyễn Trãi, đặc biệt là “Đại cáo bình Ngô”, ấy cũng bởi mưu sĩ họ Nguyễn là người trực tiếp sống và chiến đấu trong giai đoạn nước ta bị giặc Minh xâm lược. Từ đó có thể thấy, những luận cứ trong bài đại cáo hết sức xác thực và giàu tính chiến đấu. Qua tác phẩm, tác giả đã tố cáo tội ác dã man của bè lũ xâm lược và bán nước:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Từ đây, từng câu từng chữ trong tác phẩm đều như một nét mực châm phá nên bức tranh về bối cảnh loạn lạc của đất nước, và sự xảo trá, “mượn gió bẻ măng” và nham hiểm của giặc Minh. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“…Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm…”
Chính từ đó, người đọc thấy rõ sự nhơ nhuốc, bại hoại nhân nghĩa và xảo quyệt không lường của bọn xâm lược:
“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”
Chung quy lại, mục đích duy nhất mà giặc Minh hướng đến khi gót giày chúng dẫm lên lãnh thổ Đại Việt là đô hộ và cai trị, âm mưu xóa sổ và thôn tính nước ta, vì lẽ đó nên những điều ngụy biện của chúng chẳng thể dối gạt nhân dân Việt Nam, và tội ác, thủ đoạn của chúng thật là “Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Sau khi chỉ rõ âm mưu và sự bẩn thỉu trong kế sách xâm lược của quân Minh, tác giả bắt đầu chuyển mạch ngôn từ và liệt kê hàng loạt tội ác của chúng:
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Không từ thủ đoạn, quân xâm lược tàn sát người vô tội chẳng những nhằm thỏa mãn thú tính và bản chất hung tàn của chúng mà còn âm mưu diệt chủng dân nước Nam, ép những người không phục tùng chúng phải đi vào chỗ chết. Chẳng những vậy, đối với những cuộc đấu tranh chống lại sự tàn độc của lũ xâm lược, chúng chẳng ngại ngần dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu, gây cảnh binh đạo. CHưa hết, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú vui xa hoa vô lối của chúng bằng cách bóc lột, bức ép người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Bằng biện pháp liệt kê, tác giả đã tài tình khắc họa về thảm cảnh tang tóc do chính sách cai trị tàn bạo và vô luân lý của giặc Minh gây nên. Không dừng lại ở đó, quân xâm lược còn thi hành hàng loạt biện pháp man rợ khác nhằm bóc lột sức lao động, vắt kiệt sinh khí của nước ta, đồng thời tàn phá kế sinh nhai của nhân dân:
“…Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…”
Rồi thì:
“…Nay xây nhà, mai đắp đất, tay chân nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi…”
Tất cả những tội ác của chúng đều được vạch rõ và chứng minh bằng những chứng cứ xác đáng, không thể chối cãi, rồi dồn lại vào hình tượng đối lập giữa lũ giặc mọi rợ hùng bạn với người dân nhỏ bé bị chúng hành hạ, vắt kiệt sức lực, mồ hôi, máu và nước mắt:
“…Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”
Bại hoại nhân nghĩa, trời bất dung, đất bất thứ là những thứ dùng để diễn tả về những tội ác đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả đều được ngòi bút sắc hơn ngọn giáo của Nguyễn Trãi ghi tạc vào sử sách bằng giọng điệu uất hận nghẹn ngào kết hợp với biện pháp phóng đại, hình ảnh kì vĩ, vô tận, tội ác chồng chất bị phơi bày trong bản cáo trạng đẫm máu và nước mắt. ở đây, bản tuyên ngôn độc lập còn có giá trị như một bản tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân nghĩa của quân thù:
“…Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thân nhân chịu được…”
Tội ác mà thần bất dung, nhân bất thứ thì quả thật là “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Qua những phân tích nêu trên, hậu thế có thể thấy thảm cảnh chiến tranh tang thương đến nhường nào, từ đó ra sức đấu tranh vì một cuộc sống độc lập tự do cố gắng gìn giữ nền hòa bình dân tộc, chủ quyền cương vực lãnh thổ. Đồng thời, phải ra sức phấn đấu rèn luyện nhằm cống hiến và xây dựng quốc gia giàu đẹp, ấy vậy mới xứng đáng với non sông mà ông cha phải đánh đổi cả máu xương mới gìn giữa được.
Tóm lại, qua đoạn hai của “Đại cáo bình Ngô”, có thể thấy rõ sự tàn bạo, thâm hiểm, độc ác của giặc xâm lược, tất cả được khắc họa chi tiết nhờ nghệ thuật chính luận tài tình của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế thấy được giá trị của việc bảo vệ và gìn giữ non sông gấm vóc Việt Nam.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 6
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn chương chính là cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” ở đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lược mà đến hàng năm sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh thép, rõ ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động cơ thâm độc, và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của quân địch:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi mà ta nhận ra được bộ mặt bất nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công lí không bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ, đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện lương, một lòng gắn bó với tấc đất, với nhà cửa ruộng vườn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược lúc bây giờ, lũ cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc :
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt kê được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của lũ cuồng quân ngạo mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi, căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu xé dưới gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy căm phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán than, mà khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem lũ cuồng quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời kì lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa, thú tính ác độc của quân xâm lược.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 7
Nguyễn Trãi đã khắc mình vào vóc dáng của dân tộc. Định mệnh để khiến con người ta sinh ly biệt tử, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt Nam là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô đại cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng gồm hai mươi vạn bộ binh vào xâm lược nước ta. Quân Minh chia làm hai cánh theo đường sông Hồng kéo xuống. Trong suốt hai mươi năm, chúng đô hộ nước ta bằng vô số những chính sách, chiến lược khác nhau.
Nhưng với tinh thần đoàn kết, tình yêu đất nước thì chúng đã không xâm chiếm được nước ta. Lịch sử đã ghi lại tội ác của giặc Minh và đại cáo Bình Ngô lại một lần nữa tố cáo tội ác của chúng.
Nguyễn Trãi đã khẳng định tội ác đó “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và kể ra những hành động dã man của chúng. Chúng vơ vét hết mọi tài sản – không những bao gồm vật chất, sức người, sức của dân ta mà chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, tàn hại cả giống côn trùng và cả cây cỏ. Hơn những thế, chúng còn tàn sát con người mà không hề biết ghê tay:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hùng tàn
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ”
Đây là một hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một lời cáo trạng, lời buộc tội quân giặc. Dân đen là những kiếp người nhỏ bé tận cùng dưới đáy của xã hội. Họ là nạn nhân của tội ác mà quân giặc đã gieo rắc lên bờ cõi của dân tộc ta. Chắc hẳn hai câu thơ được viết nên bởi máu và nước mắt của người anh hùng dân tộc.
Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không có giấy bút nào tả xiết:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả đã chọn những cái vô cùng là trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để nói đến tội ác của loài quỷ dữ khát máu người, chỉ nhăm nhe cắn xé nhân dân ta đến tận xương tủy. Hậu quả chúng để lại vô cùng tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, nhân dân khổ cực.
Để nêu lên rõ tội ác của bọn chúng, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn giàu hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Lúc tỏ ra căm phẫn, lúc lại thể hiện sự đau đớn, xót xa cho nhân dân ta. Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh đã vượt quá giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể nào tha thứ nổi. Đứng trên lập trường nhân nghĩa thì đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Nói tóm lại, đoạn thơ này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của giặc Minh trong hai mươi năm trên mảnh đất Việt.
Để đảm bảo tăng cường tính thuyết phục lại vừa đạt được tính cô đọng, hàm súc của ngôn từ văn chương. Nguyễn Trãi đã sử dụng đan xen và kết hợp hài hòa giữa những hình ảnh mang tính chất khái quát với những hình ảnh mang tính cụ thể, sinh động.
Như vậy, bằng tài và tâm của mình. Nguyễn Trãi đã khiến cho người đọc thấy được đây là một tác phẩm đáng tự hào và cần được người đời sau coi trọng, tôn vinh.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 8
Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “ ưu thời ái quốc” - thâm thúy, sắc bén đầy biến hóa trong tài mưu lược chính trị; nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc. Định mệnh có thể khiến con người ta sinh ly tử biệt song, thời gian lại chẳng thể xóa nhòa những giá trị vĩnh hằng. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi cùng non sông nước Việt là minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất mọi thời đại thì Bình Ngô Đại Cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu luận đề chính nghĩa, phần 2 vạch rõ tội ác của kẻ thù, phần 3 kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa. Bài viết sau đây sẽ chỉ làm rõ tội ác của giặc Minh qua phần 2 của tác phẩm.
Sau hơn 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, tháng 1 năm 1428 nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước. Sau chiến thắng, Lê Lợi tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô Đại Cáo để tuyên bố cho toàn dân biết công cuộc cứu nước đã thắng lợi. Từ đây, dân tộc sẽ bước vào một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên hòa bình.
Đại Cáo Bình Ngô là tác phẩm của Nguyễn Trãi, tác phẩm này là một bản tuyên cáo rộng rãi việc đã dẹp yên giặc Ngô. Người xưa gọi thế lực phong kiến phương Bắc là giặc Ngô, giặc Ngô mà Nguyễn Trãi đề cập đến chính là giặc Minh.
Đoạn thơ thứ 2 chính là bản cáo trạng đanh thép, vạch trần tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Thừa cơ lợi dụng việc nhà Hồ chính sự đổ nát, giặc Minh kéo quân vào nước ta, hòng chiếm đoạt đã được Nguyễn Trãi vạch rõ:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Vào năm 1406, giặc Minh lấy cớ việc nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần mà huy động 20 vạn bộ binh và thủy binh, cùng với hàng chục dân phu vận chuyển dưới quyền chỉ huy của năm tướng là Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc. Chúng chia làm hai cánh kéo vào xâm lược nước Đại Việt ta, cánh thứ nhất dưới sự chỉ huy của Trương Phụ đi theo đường Bằng Tường, Quảng Tây mà tiến vào Lạng Sơn; cánh thứ 2 do Mộc Thạnh chỉ huy đi theo sông Hồng kéo xuống. Chưa dừng lại ở đó, quân Minh còn sai người mang sắc đến dụ vua Chămpa nhằm phối hợp để đánh quân ta ở biên giới phía Nam.
Từ năm 1407 đến 1427, 20 năm nhà Minh đô hộ nước ta là 20 năm chúng thực hiện các chính sách và biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chúng còn thủ tiêu những di sản văn hóa truyền thống của nước ta, chúng muốn chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Chúng còn đốt sách vở, ngay cả sách học của trẻ em và bia đá chúng cũng phá hủy. Ở đây ta thấy một lần nữa tội ác tày trời của giặc Minh đối với nhân dân Đại Việt bấy giờ.
Tội ác mà giặc Minh gây ra cho Đại Việt ta, tác giả khẳng định đó là "Bại nhân nghĩa nát cả đất trời". Sự tương đồng giữa âm mưu xâm lược và chính sách cai trị của chúng thể hiện rất rõ, và điểm chung đều rất gian xảo và thâm độc. Chúng không còn chỉ là vơ vét mọi sản vật, sức người nữa mà chúng đã tàn hại môi trường sống, tàn sát con người mà không biết ghê tay.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Đọc hai câu thơ trên ta thấy được hình ảnh cụ thể nhưng cũng khái quát về lời cáo trạng, buộc tội quân giặc. Dân đen là những kiếp người bé nhỏ, đó là những người ở tận cùng của xã hội, họ là nạn nhân trực tiếp của tội ác mà giặc Minh reo rắc trên bờ cõi đất nước ta. Đến đây ta mới thấy được tấm lòng rộng mở, một tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Trãi, ông viết nên những câu văn mang đầy giá trị nhân đạo giữa con người với những con người với nhau.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Chọn cái vô cùng là trúc Nam Sơn, nước Đông Hải để nói về tội ác của loài quỷ dữ là thằng há miệng, đứa nhe răng. Chúng và thú dữ chính là một, đều là loài động vật khát máu người, không quan tâm đến con người ta đau khổ như thế nào mà chỉ mãi nhăm nhe cắn xé. Hậu quả mà chúng tạo ra thật tàn khốc, gia đình không tan nát thì cũng là mất chồng, mất vợ, con cái nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, sản xuất trì trệ, nhân dân khổ cực.
Khi đó nhân dân ta đã dũng mãnh, đứng lên dưới ngọn cờ của Lê Lợi mà tống cổ giặc Minh ra khỏi đất nước.
Để có thể nêu rõ hơn tội ác xâm lược của giặc Minh, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, ông sử dụng những câu thơ giàu hình tượng, linh hoạt trong cách sử dụng giọng văn. Lúc căm phẫn, tức giận với lũ giặc cướp nước; lúc thì đau xót, thương cảm cho nhân dân Đại Việt ta.
Hai câu thơ cuối là lời kết án vô cùng đanh thép :
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ý của tác giả ở đây là tội ác của giặc Minh đã vượt qua giới hạn của lẽ trời, hành động tàn ác đầy nhơ bẩn của chúng đến cả thần và người đều không có cách nào tha thứ.
Đây là một bản cáo trạng đanh thép tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong 20 năm đô hộ nước ta. Để tăng thêm tính thuyết phục cho toàn đoạn tác giả đã đan xen sử dụng hài hòa giữa hai hình ảnh mang tính chất khái quát và hình ảnh có tính cụ thể, sinh động.
Bằng cái tài và cái tâm của mình, Nguyễn Trãi đã làm cho Bình Ngô Đại Cáo xứng đáng là áng văn thiên cổ hùng văn của dân tộc thời đó, thậm chí là bây giờ.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 9
“Văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác..”(Thạch Lam). Đúng vậy, văn chương chính là cánh tay đắc lực của mỗi thời kỳ lịch sử, để vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, lên án những thế lực bạo tàn, với tư cách ấy, áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo” ở đoạn thứ 2 đã bóc trần tội ác nhơ bẩn của quân xâm lược mà đến hàng năm sau không thể rửa hết tội.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi đều là những lớp ngôn từ sắc sảo, lớp lang, theo trình tự lập luận logic, ngay cả khi luận tội kẻ thù xâm lược, mạch lập luận vẫn rất đanh thép, rõ ràng. Trước hết, nhà thơ chỉ ra động cơ thâm độc, và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của quân địch:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Ngay từ những câu thơ mở đầu này, người đọc thấy ngay được âm mưu bất thành của kẻ thù, đồng thời vạch trần được bộ mặt giả tạo, mưu sâu kế hiểm của quân địch. Chúng sử dụng chiêu bài xâm lược “phù Trần diệt Hồ” với quân bài chủ chốt Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chính sách của chúng đều sặc mùi dối trá, phỉnh gạt:
“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh kết oán trải hai mươi năm”
Nhờ ngòi bút sắc lạnh, đanh thép của Nguyễn Trãi mà ta nhận ra được bộ mặt bất nhân bất nghĩa đằng sau kế hoạch thâm độc của chúng, đáng tiếc thay, công lý không bao giờ đứng về những kẻ bất nhân, tội ác của chúng trời không dung đất không tha:
“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Nhưng đau đớn hơn, là tội ác chúng gây ra cho dân tộc, những người dân đen con đỏ, đầy thương xót. Dưới ngòi bút sắc sảo của thi hào Nguyễn Trãi, chưa bao giờ hình ảnh nhân dân hiện lên lại chua xót, cay đắng và đầy căm phẫn đến như vậy:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
“Dân đen, con đỏ”, những người dân manh lệ, quanh năm lo làm ăn thiện lương, một lòng gắn bó với tấc đất, với nhà cửa ruộng vườn, đâu nên nỗi bị chúng giày xéo dưới gót giày nhơ nhuốc của chúng. Hình ảnh nhân hóa, cũng như thủ pháp đặc tả ấn tượng của Nguyễn Trãi đã một lần nữa vạch mặt chỉ tên tội ác dã man, tàn bạo của quân xâm lược lúc bây giờ, lũ cuồng quân, mang cuồng vọng hàm hồ coi mạng người như cỏ rác, sẵn sàng chà đạp, giày xéo, ăn thịt, uống máu người không tanh. Tội ác của chúng, nghìn năm sau, sử sách còn lưu lại, trời không dung đất không tha. Chưa dừng lại ở đó, giặc Minh còn ra sức vơ vét của cải, sản vật quý hiếm của nước Nam để thỏa mãn nhu cầu vật chất, thú ăn chơi nhung lụa xa xỉ, xa hoa, đồi trụy của chúng bằng cách bức ép, bóc lột, đe dọa người Việt phải săn lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:
“…Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc:
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”
Biện pháp liệt kê được đặc sử dụng trong trường hợp này, như muốn nhấn mạnh, như muốn gắn thêm vào trang văn tội tác tanh máu, nhơ nhuốc của lũ cuồng quân ngạo mạn, không bằng cầm thú lúc bấy giờ. Lời văn tả ra, hệt như thấy được cái sục sôi, căm phẫn, bức bách của người viết khi nghĩ đến nhân dân bị chà đạp, bị xâu xé dưới gót giày dã man, tàn bạo của quân giặc.
Tội ác tày đình đầy căm phẫn của chúng, không chỉ khiến dân chúng lầm than oán than, mà khiến cả thiên nhiên cũng phẫn nộ, cũng muốn gào thét để đem lũ cuồng quân này diệt sạch, để thay trời hành đạo:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Hai câu thơ, với vế đối cân xứng, nhà thơ phần nào cho thấy được tội tác khó lòng dung tha, đầy bất mãn, ác độc của quân xâm lược, đồng thời từ đó gợi lên một thời kỳ lịch sử đầy đau thương của dân tộc, những người dân đen con đỏ lầm than, khốn khó bị đưa vào vòng xoáy của những cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Bằng lời văn đanh thép, hùng hồn thấm đẫm trong từng lời thơ, mạch chảy của đoạn thơ, Nguyễn Trãi một lần nữa phơi bày sâu sắc, lột trần bản chất bất nhân bất nghĩa, thú tính ác độc của quân xâm lược.
Phân tích đoạn 2 Bình Ngô đại cáo - mẫu 10
Nếu như dân tộc ta biết đến Nam quốc sơn hà như một bản tuyên ngôn thứ nhất thì Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là áng thiên cổ hùng văn – bản tuyên ngôn đất nước thứ hai. Nguyễn Trãi bằng tài năng văn chương và chính trị của mình đã viết lên bố cáo cho toàn thiên hạ được biết về trận chiến với giặc Minh. Đặc biệt phần một và phần hai của bài cáo khẳng định chủ quyền dân tộc và vạch rõ âm mưu xâm chiếm nước ta của giặc Minh.
Trước hết Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc của nước ta. Việc nhân nghĩa theo Nguyễn Trãi là:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi tiếp thu của nho giáo để đúc kết lên thành khái niệm. Theo nhà văn, nhân nghĩa là dân được yên ổn, sống một cuộc sống yên bình, ấm no. Mà để cho dân được sống một cuộc yên ổn thì phải lo trừ bạo, cụ thể là dẹp thù trong giặc ngoài.
Sau khi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi bắt đầu khẳng định chủ quyền của dân tộc ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Đã xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Nhưng hào kiệt đời nào cũng có”
Nước Đại Việt là một nước được xây dựng từ bao đời, có một nền văn hiến lâu đời. Từ thuở trước biên giới bờ cõi đã được phân chia rõ ràng. Phong tục hai bên cũng khác nhau. Tác giả đặt ngang hàng các thời đại của ta với các thời đại tương ứng của Trung Quốc để khẳng định chủ quyền dân tộc. Có thể thấy Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền đất nước ta trên tất cả các lĩnh vực: văn hóa, biên giới, thời đại. Biện pháp nghệ thuật so sánh, đối kết hợp với câu văn biền ngẫu đã thể hiện rõ quan điểm của tác giả. Dù mạnh yếu khác nhau từng song hào kiệt đời nào cũng có. Để chứng minh cho câu nói “hào kiệt đời nào cũng có” và khẳng định chủ quyền bờ cõi, Nguyễn Trãi đã nêu lên hàng loạt các dẫn chứng lịch sử về những trận bại lớn của giặc:
“Cho nên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”
Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã đều là những cái tên quan trọng của giặc. Chúng là những tên cầm đầu cả một đoàn quân với số lượng lớn nhằm xâm chiếm nước ta. Thế nhưng chiến tranh phi nghĩa thì không bao giờ có kết quả tốt. Đặc biết chúng là những tham công, thích lớn nên càng dễ bị thất bại và tiêu diệt. Hàm Tử, Bạch Đằng là những địa danh của ta, đó không chỉ nơi diễn ra trận chiến với giặc mà còn là nấm mồ chôn xác chúng.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc trên các lĩnh vực triều đại, văn hóa, biên giới, lịch sử, Nguyễn Trãi trình bày cho toàn dân thiên hạ biết về âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa của bọn giặc Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Nhà văn chỉ rõ nguyên nhân do chính sự nhà Hồ gặp rắc rối cho nên giặc Minh mượn cớ phù Trần diệt Hồ để hòng xâm chiếm nước Đại Việt. Không chỉ quân giặc ngoại xâm mưu mô xảo trá mà bọn nội phản trong nước cũng ngóc đầu dậy bán nước cầu vinh. Chúng nghe theo lời của giặc ngoại xâm, chấp nhận làm tay sai cho chúng.
Tội ác của chúng gây ra cho nhân dân Đại Việt không hề nhỏ, chúng tán tận lương tâm đẩy con dân ta vào những tình cảnh khổ tận cam lại, khốn nạn thay chúng vét sạch cả núi sông và cả sức người Đại Việt:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Chúng “nướng dân đen” rồi vùi “con đỏ” xuống hầm để khai thác tài nguyên thiên nhiên cho chúng. Chúng lừa dối trời lừa dối dân bằng muôn ngàn kế sách nhằm vơ vét tài nguyên nước ta. Tội ác của chúng bại cả nhân nghĩa, tan nát cả đất trời, lòng dân oán hận biết bao nhiêu năm nhưng không thể làm gì được chúng. Chúng không chỉ vơ vét tài nguyên mà còn đặt ra hàng trăm thứ thuế đẩy người nông dân đến hoàn cảnh khốn cùng. Người thì bị chúng ép xuống biển mò ngọc dù nơi đó cá mập vây quanh, con dân có thể bị xé xác bất cứ lúc nào. Kẻ thì bị lên núi đãi cát tìm vàng dù rừng thiêng nước độc. Hiện trạng đất nước được phô ra trước mắt với những hình ảnh đau thương, khắp nơi khắp chốn cạm bẫy, lưới giăng đến cây cỏ còn bị sát hại huống chi đến con người. Từ những sản vật cho đến động vật, thực vật đều không sống nổi với sự tàn ác của giặc Minh. Khốn thay cho những người phụ nữ góa chồng.
Đối lập với nỗi khốn khổ của nhân dân Đại Việt, lũ giặc Minh giống như một lũ quỷ răng nanh máu me kinh khủng:
“Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?”
Chúng hiện lên như những con quỷ béo mỡ, đáng sợ. Với cái miệng rộng và hàm răng quỷ dữ ấy chúng bắt nhân dân ta nay xây nhà mai đắp đất. Rồi ai phục dịch chúng cho vừa, nặng nề và tan tác cả nghề canh cửi. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo cấu trúc câu “độc ác thay…” “Dơ bẩn thay…” nhằm nhấn mạnh vào sự khinh bỉ và căm phẫn tội ác của giặc Minh. Tội ác của chúng dẫu có bao nhiêu trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội, nước Đông Hải có nhiều cũng không rửa sạch mùi. Tội ác tày trời đất chẳng lẽ nào dung tha cho chúng, lòng dân sẽ nổi dậy.
Như vậy, phần một và phần hai của bài cáo đã khẳng định chủ quyền của nhân dân Đại Việt. Đồng thời vạch rõ âm mưu xâm chiếm của giặc Minh. Tội ác của chúng được phơi bày ra cho toàn dân thiên hạ được biết. Tội ác của chúng không thể nào dung tha. Bài cáo sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như đối lập, miêu tả, so sánh kết hợp với lối văn biền ngầu tự do đã thể hiện rõ được nội dung mà tác giả muốn trình bày.
Phân tích Bình Ngô đại cáo
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 1
Sau hai mươi năm của cuộc kháng chiến chống quân Minh và sau hơn mười năm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1416 - 1427), bản Đại cáo bình Ngô ra đời là một điều tất yếu. Trên phương diện hành chính quan phương, đây là một văn kiện lịch sử nhằm thông báo, tuyên bố rộng rãi về nền độc lập của dân tộc sau nhiều năm gian truân, khổ cực, “tướng sĩ một lòng”. Nhưng đây còn là một áng văn yêu nước hùng tráng, kết tinh của biết bao nhiêu trái tim yêu chuộng hòa bình của dân tộc, mà tác giả Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào đó qua từng con chữ, câu văn. Mạch cảm xúc không vì thế mà khô khan, cứng nhắc như vốn có, ngược lại đầy cháy bỏng, tha thiết… để mỗi chúng ta được ôn lại truyền thống oai hùng của lịch sử đất nước.
Cáo là một thể loại quen thuộc, cũng như chiếu, biểu, hịch,… mà trong chốn cung cấm tôn nghiêm hay dùng để ban những sắc lệnh quan trọng trong một thời điểm của vua hoặc người đứng đầu. Nhưng Bình Ngô đại cáo là một bản đại cáo khác xa với ý nghĩa thông thường, mang tính thời vụ đó. Bởi Nguyễn Trãi đã đưa khát vọng, niềm tự hào, kiêu hùng của nhân dân và của chính bản thân ông để một văn kiện lịch sử nhằm thông báo sự kiện trọng đại có tính chất quốc gia này mang theo một sức sống trường tồn, bất hủ. Tuy viết bằng chữ Hán, song bản dịch hiện hành cho đến giờ gần như không có độ chênh lệch lớn, vẫn bảo toàn nguyên vẹn ý nghĩa gốc. Bố cục bài cáo bốn phần rõ ràng, mạch lạc. Đoạn 1, nêu luận đề chính nghĩa. Đoạn 2, vạch trần tội ác của giặc Minh. Đoạn 3, cuộc khởi nghĩa đầy gian khổ và tất thắng của quân và dân ta. Đoạn 4, lời tuyên bố độc lập. Qua ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã viết nên một áng văn chính luận xuất sắc, đỉnh cao và trở thành mẫu mực cho văn chương chính luận trung đại Việt Nam.
Mở đầu bài cáo, tác giả viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa – một tư tưởng quen thuộc, nhắc tới cách hành xử tốt đẹp giữa người với người trong quan niệm đạo đức Nho gia. Tại sao Nguyễn Trãi lại đề cập đến ngay ở đầu bài cáo. Đây chẳng những là lí tưởng đạo đức suốt đời trong sự nghiệp cống hiến cho đất nước cũng như sáng tác văn chương của ông, mà còn là một điều mới mẻ, được nâng lên một tầm cao về mặt ý nghĩa so với trước đó. Bởi cốt lõi nhân nghĩa mà Ức Trai tôn thờ là yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Vậy trong hoàn cảnh ngoại bang, “quân điếu phạt” Minh xâm lược, muốn dân được yên không gì khác ngoài việc phải lo trừ bạo. Tức là vì thương dân mà phải diệt trừ lũ bạo ngược đã hại dân, bao gồm bọn giặc Minh với ách đô hộ đầy hà khắc và cả bọn bán nước trục lợi, cầu vinh. Trên nền tảng lấy “dân làm gốc”, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Biết dựa sức mạnh vào dân là phương kế chính trị lớn lao đem lại thắng lợi to lớn cho dân tộc ở mọi thời đại. Bởi vậy, nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo nói riêng và cả sự nghiệp văn thơ Nguyễn Trãi đã trở thành một đạo lý dân tộc, một lí tưởng xã hội sáng ngời.
Từ lập trường nhân nghĩa ấy, tác giả đã xây dựng một cơ sở lí luận vững chắc, nêu lên được luận đề chính nghĩa ở ngay phần mở đầu của bài cáo.
Như nước Đại Việt ta từ trước
…
Chứng cớ còn ghi.
Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền độc lập một cách đầy đủ nhất. Lối lập luận so sánh sắc bén, đa chiều đã khẳng định những phương diện cốt lõi để định danh chủ quyền của mỗi quốc gia. Bỏ qua yếu tố lớn nhỏ, mạnh yếu mà cân nhắc, xem xét ở những điều có hay không. Văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt Đại Việt ta so với Đại Hán, Bắc phương đều có cả, thậm chí tương xứng, song hành. Cái hay mà Nguyễn Trãi đem lại không những khẳng định được nền độc lập dân tộc mà còn cho thấy cả quá trình để sức sống độc lập ấy tồn tại đầy mãnh liệt. Chỉ một đoạn văn nhỏ mà thấy cả dòng chảy lịch sử suốt năm trăm năm, với sáu lần đánh bại quân thù. Không còn điều gì có thể tự hào hơn, không còn điều gì có thể thay đổi chân lý đó. Những chứng cớ lịch sử năm xưa lại càng “khóa chặt” cho cơ sở lí luận về nền độc lập dân tộc, về sự chính nghĩa trong công cuộc trường chinh bảo vệ đất nước của vua tôi nhà hậu Lê.
Chủ quyền quốc gia độc lập, vậy nếu bất cứ kẻ nào xâm phạm đều mang trong mình trọng tội. Bè lũ gặc Minh và bọn bán nước cầu vinh lúc bấy giờ thì:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Cớ gì mà vị quân sư chính trực của Lê Lợi lại khẳng định một cách tận cùng về tội ác của bọn chúng như vậy? Cả một đoạn văn có lẽ thấm đẫm nước mắt, căm hờn sục sôi mà bao lâu nay bị dồn nén được Nguyễn Trãi viết ra một cách tường tận. Từ âm mưu xâm lược thâm độc Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ thừa cơ gây họa, lợi dụng tình hình rối ren của đất nước do nhà Hồ gây ra, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ, nhằm bịp bợm nhân dân. Đến những hành vi xâm lược, bóc lột tàn bạo, dã man không thể diễn tả nổi. Dưới góc nhìn của Nguyễn Trãi, qua lăng kính của tư tưởng nhân nghĩa, yên dân thì tội ác không thể chấp nhận được của bọn chúng là dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế. Vì vậy bút pháp phóng đại, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giọng điệu đanh thép đã chắp bút để ông vạch trần bộ mặt man rợ, trắng trợn của bè lũ cướp nước. Thật đau xót, tê dại khi nhớ lại:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Cái đáng sợ của bọn giặc Minh là ngay cả đến dân đen, con đỏ cũng chẳng tha. Hai động từ nướng, vùi đã lột tả trần trụi đến rợn người về sự tàn sát của chúng. Nhưng đâu chỉ có vậy, chúng còn Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt, ép dân xuống biển dòng lưng mò ngọc, vào núi đãi cát tìm vàng. Biết bao người dân vô tội phải thiệt mạng vì cá mập thuồng luồng, vì bệnh tật nơi rừng sâu nước độc. Thảm cảnh Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng chỉ là một trong số vô vàn những đau khổ chúng để lại cho dân lành. Về kinh tế, chúng cũng cũng đẩy đất nước rơi vào cảnh kiệt quệ. Năng thuế khóa để bóc lột, vơ vét tài nguyên, khoáng sản, tàn phá cả nghề trồng lúa, nghề dệt vải… Đến cả giống côn trùng cây cả cũng không tha. Các từ ngữ chốn chốn, nơi nơi chỉ không gian rộng và Gây binh kết oán trải hai mươi năm chỉ thời gian dài khiến Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Tội ác của bọn chúng đúng là trời không dung, đất không tha, cả thần và nhân không chịu nổi. Bản cáo trạng như thấm đẫm cả máu, nước mắt của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã tổng kết lại. Từng chữ, từng câu chất chứa nỗi uất nghẹn, căm hờn. Những chứng cớ về tội ác ấy là bản cáo trạng đanh thép nhất, là thực tiễn lịch sử xác đáng nhất để chứng tỏ phải diệt trừ lẽ lũ ngang tàng, bạo ngược, dối trá – giặc Minh là một việc làm đầy chính nghĩa của nhân dân ta, mà đội quân Lam Sơn là người gánh vác sứ mệnh.
Trước kẻ thù hiểm ác, thâm độc như thế, việc trừ bạo không hề dễ dàng. Ở đoạn văn tiếp theo, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.
Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân để:
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động binh cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:
- Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
- Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh thật phi thường.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi vào bị động, thất thế. Chúng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng lẫn quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn…Thất bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.
Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.
Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang không khí mừng vui phấn khởi khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.
Xã tắc từ đây vững bền
…
Ai nấy đều hay
Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỉ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.
Dàn ý Phân tích Bình Ngô đại cáo
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác phẩm Bình Ngô đại cáo: "Áng thiên cổ hùng văn", bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
- Nêu khái quát về nội dung tư tưởng tác phẩm.
2. Thân bài
a) Vài nét cơ bản về tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Hoàn cảnh sáng tác bài thơ: Sau khi chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm "Bình Ngô đại cáo", công bố vào tháng Chạp năm 1428 với mục đích: Tổng kết quá trình chiến đấu chống ngoại xâm; tuyên bố nền độc lập của dân tộc ta
- Thể loại: Cáo là thể loại thuộc văn học chức năng, là loại thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc thường được vua, chúa, thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về sự kiện nào đó để mọi người cùng biết.
- Nhan đề bài cáo: "Ngô" là từ chỉ nhà Ngô thời Tam Quốc, triều đại phương Bắc sang xâm lược nước ta; "Bình Ngô đại cáo" mang ý nghĩa tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô và tâm thế chiến thắng của toàn dân tộc ta trước kẻ thù tàn ác.
- Bố cục bài Bình Ngô đại cáo:
+ Phần một: Nêu luận đề chính nghĩa
+ Phần hai: Tội ác không thể dung tha của giặc Minh
+ Phần ba: Công cuộc chiến đấu và kết quả của cuộc chiến
+ Phần tư: Tuyên bố chiến thắng, lời khẳng định chủ quyền, vị thế của dân tộc.
b) Phân tích cụ thể tác phẩm Bình Ngô đại cáo
* Phần một: Luận đề chính nghĩa
- "Việc nhân nghĩa... lo trừ bạo":
+ "nhân nghĩa": Tư tưởng, hành động vì con người, đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho đời sống nhân dân bởi nhân dân có ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển bền vững được.
+ Những người đứng đầu nhà nước cần lo việc "yên dân", "trừ bạo", dẹp yên bọn xâm lược và bè lũ tay sai của chúng ở trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân.
- "Như nước Đại Việt ta... thời nào cũng có":
+ Nguyễn Trãi chỉ ra các yếu tố tạo nên nước Đại Việt: Nền văn hiến lâu đời, ranh giới riêng, phong tục tập quán đặc sắc, bề dày lịch sử sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc.
+ "từ trước", "vốn xưng", "đã chia": Sự tồn tại và phát triển của nước ta trong lịch sử như một điều hiển nhiên không thể chối cãi
+ Lời khẳng định của tác giả: Tuy các triều đại có lúc mạnh, lúc yếu nhưng nhân tài nước Việt thời nào cũng có.
- "Lưu Cung... còn ghi":
+ Các tướng giặc đều bị anh hùng hào kiệt nước ta "giết tươi", "bắt sống", chuốc lấy kết cục bi thảm
+ Sức mạnh của quân dân đã tiêu diệt được bọn xâm lược gian tà, hung ác
- Giọng điệu hào hùng, vế đối hài hòa => Thể hiện niềm tự tôn, tự hào dân tộc, niềm tin vào sức mạnh của dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường.
* Phần hai: Bản cáo trạng tội ác của giặc Minh
- "Nhân họ Hồ... cầu vinh":
+ Luận điệu xảo trá, bịp bợm của chúng: "phù Trần diệt Hồ", thừa nước đục thả câu.
+ Nhân dân ta một cổ hai tròng: Giặc ngoại (giặc xâm lược bên ngoài) và giặc nội (bọn bán nước cầu vinh).
- "Nướng dân đen... nghề canh cửi":
+ Giặc Minh hung tàn, vô nhân tính, dùng muôn ngàn kế để thôn tính nước ta
+ Hành động diệt chủng dã man: "nướng... hung tàn", "vùi... tai họa"
+ Dùng tính mạng người dân làm trò tiêu khiển
+ Bóc lột của cải, tính mạng của nhân dân: Các loại thuế khóa, vơ vét sản vật quý hiếm, bắt nhân dân xuống biển mò ngọc, vào núi tìm vàng, "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ",...
=> Hậu quả: "tan tác cả nghề canh cửi", làm li tán các gia đình "nheo nhóc", vợ mất chồng, con mất cha...
=> Tội ác của chúng khiến trời đất không thể dung tha: "Trúc... tội", "nước... mùi", "Lẽ nào... chịu được"
+ Nghệ thuật: Liệt kê, phóng đại, câu hỏi tu từ, các hình ảnh vừa mang tính khái quát vừa cụ thế nhằm tố cáo tội ác của giặc.
* Phần ba: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và kết quả của cuộc chiến
- Giai đoạn đầu của cuộc chiến:
+ "Ngẫm thù lớn... cùng sống": Không thể chung sống dưới một bầu trời cùng kẻ thù, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa
+ "Tuấn kiệt... người bàn bạc": Buổi đầu, quân ta gặp không ít khó khăn khi kẻ thù đang trong lúc mạnh; người tài không nhiều, sách lược chiến đấu thiếu người bàn bạc, đỡ đần; binh lính thì ít; lương thực cũng cạn kiệt.
=> Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng vị chủ tướng vẫn "gắng chí khắc phục gian nan".
- Những chiến thắng vang dội ban đầu: "Trận Bồ Đằng... càng hăng"
+ Các trận đánh ở Chi Lăng, Mã An, Cần Trạm,... khiến các tướng Minh phải tự vẫn, tử vong,...; bốn viên tướng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính của nhà Minh: "mất vía", "nín thở cầu thoát thân", các tướng lĩnh khác bỏ mạng, đầu hàng; "Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng", đô đốc Thôi Tụ "dâng tờ tạ tội",...
+ Quân ta chiến đấu với sức mạnh và khí thế quyết liệt khiến quân giặc tan tác: "Đánh một trận... tan tác chim muông".
+ Nghệ thuật: Động từ mạnh "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run"; các tính từ chỉ mức độ "thây chất đầy đường", "máu trôi đỏ nước", "đầm đìa máu đen",... => Sự thảm hại của giặc Minh và sự mỉa mai, châm biếm kẻ thù của tác giả.
* Phần kết: Lời tuyên bố, khẳng định nền độc lập của dân tộc "Xã tắc... đều hay"
- Dẹp yên giặc rồi xây dựng đất nước, bế tắc rồi thông suốt, nhật nguyệt tối rồi sáng: Quy luật vận động tất yếu của lịch sử
- Nhờ"trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ" cùng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được giặc Minh làm cho đất nước sạch bóng kẻ thù.
3. Kết bài
- Khẳng định lại những đặc sắc của nghệ thuật và giá trị nội dung của Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 2
Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba và lỗi lạc, ông tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với những công trạng vĩ đại của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, việc tham gia sâu rộng vào chính trị và có nhiều đóng góp to lớn đã khiến ông trở thành cái gai trong mắt của nhiều thế lực đối lập, cuối cùng bản thân ông và gia đình phải chịu án oan thảm khốc tru di tam tộc (thảm án Lệ Chi viên), khiến người đời không khỏi đau xót, tiếc thương. Ngoài là một nhà chính trị, quân sự tài ba, Nguyễn Trãi còn được biết đến là một nhà văn chính luận kiệt xuất, với số lượng tác phẩm tuy ít nhưng bài nào cũng để lại tiếng vang đến muôn đời có thể kể đến hai tác phẩm tiêu biểu là Quân trung từ mệnh tập và Bình ngô đại cáo. Ông là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho giáo thế nhưng theo như lời của Trần Đình Hựu thì “Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó”. Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư tưởng nhân dân, tiến bộ hẳn so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ thống tư tưởng này ta có thể nhận thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bình ngô đại cáo, tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.
Bình ngô đại cáo được sáng tác vào cuối năm 1427, thời điểm nghĩa quân Lam Sơn giành được thắng lợi huy hoàng, tiêu diệt 15 vạn viện binh của giặc Minh xâm lược do Liễu Thăng và Mộc Thạnh dẫn đầu. Vương Thông buộc phải viết thư xin hàng và rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để công bố cho nhân dân về việc đã dẹp yên giặc Minh xâm lược, đồng thời nó cũng đóng vai trò như là một bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra một triều đại mới, triều đại thịnh thế của nhà Hậu Lê, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do cho dân tộc. Bình Ngô đại cáo được đọc vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề “Bình Ngô đại cáo”, ở đây có thể lý giải rằng vua Minh là người đất Ngô, nên khi nói “Bình Ngô” ta sẽ hiểu rằng là bình định quân Minh xâm lược. Hoặc một cách hiểu khác, thì trước đây vào thời tam quốc, nước Ngô là nước đã cai trị nước ta một cách tàn ác và vô nhân đạo, cái tên “giặc Ngô” hay nước hay “nước Ngô” đã trở thành một loại từ khóa ám ảnh với nhân dân ta bao đời, thế nên khi nói đến giặc Ngô tức là nói đến thứ giặc xâm lược tàn bạo và độc ác. “Đại cáo” tức là bản cáo lớn, ở đây Nguyễn Trãi muốn khẳng định đại đạo của dân tộc “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” vốn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tác phẩm. Thứ hai nữa “đại cáo” này còn gắn liền với thể loại văn bản đương đại của nhà Minh, có ý nghĩa pháp luật, tác giả muốn khẳng định rằng đây cũng là một văn kiện pháp luật của Đại Việt, có giá trị, ý nghĩa tương đương với văn kiện pháp luật của nhà Minh, khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích làm cơ sở, căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”
Đầu tiên Nguyễn Trãi nêu ra tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc yêu thương con người, được bộc lộ thông qua các hành động cụ thể bao gồm “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, nghĩa là người đứng đầu một đất nước phải có trách nhiệm bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no cho nhân dân. Kéo theo việc bảo vệ cuộc sống bình yên đó thì “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, vốn là một tích xuất phát từ điển cố trong Kinh thư, ngụ ý muốn “yên dân” thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, những thế lực đã phá vỡ sự bình yên của nhân dân. Từ đó thấy được quan điểm mới mẻ, tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trãi: Nhân nghĩa tức là gắn với việc yêu dân, chuộng hòa bình, và gắn với lòng yêu nước sâu sắc. Luận đề thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập đó là sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt ta từ bao đời nay, được tác giả khẳng định như một chân lý khách quan thông qua năm yếu tố cơ bản để chứng minh cho luận đề trên của mình. Bao gồm nền văn hiến độc lập đã tồn tại từ lâu đời “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, bao gồm cương vực lãnh thổ riêng “núi sông bờ cõi đã chia”, rồi về văn hóa chúng ta cũng có phong tục tập quán riêng khi “phong tục Bắc Nam cũng khác”. Xét về khía cạnh lịch sử, nếu như phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì nước Đại Việt ta cũng chẳng kém cạnh khi có Triệu, Đinh, Lý, Trần những triều đại đã bao lần gây nền độc lập. Truyền thống lịch sử riêng này còn được cụ thể hóa trong những câu thơ “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”, khẳng định đời nào, triều đại nào chúng ta cũng có những anh hùng vang danh sử sách, lập nên những chiến công vĩ đại để bảo vệ nền độc lập dân tộc của chúng ta, khiến kẻ thù biết bao phen thất bại, khốn đốn. Vậy nên mới có những chuyện như “Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”, đó đã là những chứng cứ, những sự thực minh bạch không thể chối cãi, in hằn trong từng trang sử sách của nước Đại Việt ta bao đời nay. Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là lời khẳng định chủ quyền độc lập riêng của dân tộc trong ý thơ “mỗi bên xưng đế một phương” thể hiện phong thái tự tin, mạnh mẽ, ý thức tự cường dân tộc của Nguyễn Trãi trong việc khẳng định nền độc lập, bờ cõi của đất nước. Rằng vua nước Nam chỉ xưng “đế”, chứ không xưng “vương” theo cái kiểu mạt sát, khinh thường của nước phương Bắc, xem chúng ta là nước chư hầu, phụ thuộc vào “thiên triều” của chúng. Mà ta có thể thấy rõ ở bài cáo này Nguyễn Trãi đã hoàn toàn phủ nhận cái quan điểm ngạo mạn ấy, khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, chủ quyền lãnh thổ tạo nên một hệ thống lý luận, căn cứ vững chắc để triển khai tiếp các luận đề phía sau. Có thể nói rằng Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về quốc gia dân tộc dựa trên 5 yếu tố trên, đây là một bước tiến rất lớn, hoàn thiện định nghĩa về tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất chỉ bao gồm 2 yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận và tầm tư duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại. Thêm vào đó ngoài nội dung chính của luận đề, sự thuyết phục của quan điểm trên còn nằm ở cái cách mà tác giả Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ như: từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Mà tất cả những từ ngữ này lại thuộc cùng một trường khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của chân lý mà tác giả đã nêu ra.
Sau khi nêu ra hai luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã tiến hành nêu ra các tội ác của giặc Minh đã gây ra đối với nhân dân ta. Tác giả đã đứng trên hai lập trường là lập trường của dân tộc và lập trường nhân nghĩa nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù. Trước hết là trên lập trường dân tộc, ông đã tố cáo, nhận diện rõ ràng âm mưu cướp nước của giặc Minh thông qua mấy câu thơ sau:
Vừa rồi:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Dùng các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ” để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh kéo quân sang nước ta với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhưng thực tế là thừa dịp xâm lược Đại Việt. Vịn vào việc Hồ Quý Ly lên ngôi không danh chính ngôn thuận, không được lòng dân để lấy được sự ủng hộ của nhân dân Đại Việt nhằm thực hiện mưu hèn kế bẩn mà chúng đã ấp ủ bấy lâu nay.
Đứng trên lập trường nhân bản, nhân nghĩa, đứng về phía quyền sống của nhân dân để tố cáo chủ trương cai trị phản nhân đạo của kẻ thù. Thứ nhất là giặc Minh đã hủy hoại cuộc sống của nhân dân bằng hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo, man rợ “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” . Tội ác thứ hai là hủy hoại môi trường sống của nhân dân Đại Việt “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi/Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, các loại sưu cao thuế nặng đã đẩy nhân dân vào bước đường buộc phải vơ vét cạn kiệt tài nguyên đất nước, gây ra sự tàn phá nặng nề đối với các giống loài tự nhiên, triệt đường sống của vạn vật. Tội ác thứ ba của chúng là việc sử dụng người dân như là một công cụ biết nói để vơ vét sản vật, là công cụ để phục dịch cho lòng tham vô đáy của mình“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, nhưng khốn nỗi rừng sâu nước độc/ Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?” vô cùng độc ác và tàn bạo. Sự cai trị tàn bạo của giặc Minh xâm lược đã khiến cho người dân vô tội lâm vào bước đường cùng cực, bị triệt tiêu đường sống, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm khi phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc”, với “cá mập thuồng thuồng”. Chưa kể là cuộc sống vốn yên ấm bấy lâu nay cũng vỡ nát khi “tan tác cả nghề canh cửi”, gia đình hạnh phúc bỗng chốc mất đi người chồng người cha “Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”. Sự độc ác ấy đến “trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, sự hèn hạ bẩn thỉu này có dùng nước Đông Hải cũng muôn đời tanh tưởi. Nguyễn Trãi viết “Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?” chính là sự giận dữ trước chính sách cai trị tàn bạo của kẻ thù, đồng thời cũng là tấm lòng đau xót vạn phần cho những nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng suốt mấy mươi năm qua. Về nghệ thuật viết cáo trạng trong đoạn này, ta có thể nhận thấy rõ cách sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập giữa nhân dân ta và giặc thù, nhằm nhấn mạnh, khắc sâu sự đớn đau của nhân dân và tội ác man rợ của kẻ thù. Bên cạnh đó Nguyễn Trãi còn sử dụng các hình ảnh rất giàu giá trị biểu cảm, gợi tả như “trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải”, dùng cái vô cùng, tột độ để diễn tả cái vô tận trong những tội ác của kẻ thù. Giọng văn có lúc thì thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân, nhưng cũng có lúc đanh thép, hùng hồn để kết tội kẻ thù “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán/ Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?” là lời kết tội kẻ thù, là lời để ngỏ, lời để dồn lòng căm thù vào đối tượng đã gây ra biết bao đớn đau cho dân tộc, giống nòi.
Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn, Nguyễn Trãi đã nói về tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và niềm tin tất thắng của cuộc khởi nghĩa. Trong giai đoạn đầu, “vạn sự khởi đầu nan” cuộc khởi nghĩa của chủ tướng Lê Lợi gặp rất nhiều khó khăn, đầu tiên Nguyễn Trãi đã tái hiện lại sự tương quan giữa ta và địch. Về phía địch, khi cờ khởi nghĩa của ta vừa dấy lên, thì cũng chính là lúc “quân thù đang mạnh”, giặc Minh được thế giở thói “hung đồ ngang dọc” thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế đàn áp nhân dân. Trái lại về phía ta thì lại gặp vô vàn khó khăn trắc trở “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá màu thu”, vốn đã thiếu người, thiếu lực lượng và thiếu nhất là những người tài chịu đứng ra giúp nước phò tá Lê Lợi, trong việc bôn tẩu, bàn bạc kế sách chống quân thù. “Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi” người thiếu, lực mỏng và con đường khởi nghĩa cũng còn quá mơ hồ, bởi so với địch thực sự thế lực của ta chẳng thể chống đỡ được quá lâu. Một nỗi lo khác nữa ấy là ngoài thiếu nhân lực ta còn thiếu cả vật lực “Vận nước khó khăn/Linh Sơn lương hết mấy tuần/Khôi huyện quân không một đội”, thiếu thốn lương thực, vũ khí, không có nguồn tiếp tế khiến nghĩa quân nhiều lần lao đao, khốn khó trong việc duy trì tinh thần quân lính. Có thể thấy rõ rằng, tương quan lực lượng giữa ta và địch là hoàn toàn chênh lệch với cái thế yếu thuộc về nghĩa quân Lam Sơn. Và để vượt qua tất cả những khó khăn trên, lật ngược ván cờ làm nên chiến thắng lừng lẫy trước kẻ thù phải kể đến yếu tố tiên quyết đó là sự lãnh đạo xuất sắc của vị lãnh tụ đứng đầu nghĩa quân - Lê Lợi. Ở Lê Lợi hội tụ đầy đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại: Có lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm cao độ trong việc thực hiện lý tưởng cao đẹp khôi phục giang sơn, nền độc lập của dân tộc “Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời...Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”. Ông cũng là người rất biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả”, biết coi trọng vai trò của nhân dân, biết tập hợp sức mạnh của nhân dân vốn là yếu tố tiên quyết để quyết định chiến thắng của khởi nghĩa. Thêm vào đó ở Lê Lợi còn có khả năng thu phục lòng người tạo nên khối đại đoàn kết vững mạnh trong toàn quân, quân sĩ trên dưới một lòng chống giặc “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”. Cuối cùng một yếu tố không thể thiếu ở người lãnh đạo ấy là sự tài trí mưu lược, giỏi bày binh bố trận của Lê Lợi “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.
Sau giai đoạn đầu đầy khó khăn của cuộc khởi nghĩa nhưng với vai trò của người lãnh tụ kiệt xuất Lê Lợi thì nghĩa quân bắt đầu bước vào giai đoạn phản công mạnh mẽ mẽ để giành thắng lợi. Ở chặng thứ nhất, quân ta đã tiến đánh các vị trí đóng quân khác nhau của địch làm cho chúng sức cùng lực kiệt, phải cầu cứu quân tiếp viện, trái ngược với giai đoạn đầu thì ở đây nghĩa quân đã liên tiếp giành được những chiến thắng vang dội, còn kẻ thù thì phải nhận hàng loạt các chiến bại, vô cùng nhục nhã. Về phía ta thì “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay/Sĩ khí đã hăng/Quân thanh càng mạnh”, còn lũ địch nhát gan chỉ được nước “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân”. Quân ta liên tiếp giành lại những thành trì, vùng đất đã rơi vào tay giặc như Tây Kinh, Đông Đô, Tốt Động, Ninh Kiều, khiến quân giặc nghe hơi mà mất vía, trái lại về phía địch thì toàn nhận lại những trận thảm bại, “máu chảy thành sông”, “thây chất đầy nội”, tướng lĩnh kẻ bêu đầu, đứa tử trận, Vương Thông, Mã Anh dù cố cứu nguy nhưng kết quả cũng đành “Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt”. Cuối cùng cái mà kẻ mưu đồ cướp nước nhận lại là là nỗi nhục đến muôn ngàn sau “Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian”. Tổng kết lại, kẻ thù hiện lên với bộ dáng hết sức thảm bại, nhục nhã, còn quân dân ta là sự vẻ vang rong chiến thắng sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa “Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian”, “Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công”, làm nên chiến thắng vô cùng đáng trân trọng.
Sang chặng đường thứ hai, sau khi kẻ thù rơi vào thất bại thảm hại, nhưng chúng vẫn ngoan cố không chịu rút về nước, trái lại còn đưa thêm quân tiếp viện do hai tướng Mộc Thạnh và Liễu Thăng chỉ huy chia làm hai đạo quân tiến vào nước ta hòng tiêu diệt nghĩa quân, lấy lại thế chủ động. Lúc này đây nghĩa quân ta tiếp tục quá trình kháng chiến, tiếp nối sĩ khí của chặng đường thứ nhất để chặn đánh quân địch ở vùng biên giới, phá tan âm mưu hiểm độc của chúng. Nhưng cuối cùng trước việc mạnh mẽ “chặt mũi tiên phong”, “tuyệt nguồn lương thực”, “Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá...Lại thêm quân bốn mặt vây thành/Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc/Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”của ta. Thì cái mà quân địch nhận lại cũng chỉ có thảm bại hơn chứ không có thảm bại nhất, “trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế”, “trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu”, Lương Minh tử vong, Bá Khánh cùng kế phải tự vẫn. Sĩ khí quân giặc vốn đã chán nản nay lại thêm điên cuồng lao vào tàn sát lẫn nhau, ta chưa đánh nhưng giặc đã tự loạn, quân Mộc Thạnh khiếp vía giẫm đạp lên nhau để mà thoát thân, thảm hại vô cùng. Nhưng với tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt, ta không những không đuổi cùng diệt tận mà “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”, “Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa” để chúng rút lui về nước trong sự tâm phục khẩu phục, vừa để quân dân nghỉ ngơi lấy sức khôi phục đất nước sau chiến tranh. Nghệ thuật chính trong toàn đoạn cáo nói về hai chặng đường chống giặc Minh của quân ta là bút pháp đậm chất anh hùng ca được miêu tả bằng các hình ảnh rộng lớn, thể hiện sự kỳ vĩ của thiên nhiên, dùng ngôn ngữ đặc sắc, với các động từ liên tiếp để diễn tả sự chuyển rung liên tiếp của trận chiến, dùng những tính từ ở mức độ tối đa để tạo ra sự tương phản sâu sắc giữa ta và địch. Thêm vào đó là nghệ thuật dùng câu văn linh hoạt, chiến thắng của ta thì dùng câu văn ngắn thể hiện sự dồn dập, quyết đoán mạnh mẽ, oai hùng, còn thất bại của địch thì được diễn tả bằng những câu văn dài thể hiện tính chất khôn cùng, không sao kể hết được.
Cuối cùng Nguyễn Trãi chuyển sang tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến thắng, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng dưới triều vua mới. Sau là rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của trời đất và tự nhiên, “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh” thể hiện sự tin tưởng vào vận mệnh mới của dân tộc, sau khi đã trải qua cơn bĩ cực của lịch sử. Thứ hai là chiến thắng của chúng ta được tạo nên nhờ sự kết hợp của sức mạnh thời đại “Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”, và yếu tố thứ hai chính là sức mạnh của truyền thống “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.
Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 3
Nếu bài thơ "Nam quốc sơn hà" có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được coi là "áng thiên cổ hùng văn", là bản tuyên ngôn độc lập chủ quyền thứ hai của đất nước ta. Đây là tác phẩm mang những đặc điểm cơ bản của thể loại cáo nói chung, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm sáng tạo riêng của tác giả.
Sau khi quân ta chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm "Bình Ngô đại cáo". Bài cáo này được công bố vào tháng Chạp năm 1428 nhằm mục đích tổng kết lại quá trình chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, bảo vệ đất nước và tuyên bố về nền độc lập của dân tộc ta. Cáo là một thể loại thuộc văn học chức năng và là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua, chúa, thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về một sự kiện nào đó để mọi người cùng biết. Đặc trưng cơ bản của thể loại này là được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần lớn cáo được viết bằng văn biền ngẫu, có sử dụng các phép đối, các câu dài ngắn tự do. "Bình Ngô đại cáo" là bài cáo có bố cục chặt chẽ, lí luận sắc bén, giọng điệu, lời lẽ đanh thép, hùng hồn. Bố cục của bài cáo chia thành bốn phần: Phần một tác giả nêu luận đề chính nghĩa hay nói cách khác đó chính là tư tưởng nhân nghĩa của tác giả; nội dung chính của phần hai là những tội ác không thể dung tha của giặc Minh; ở phần ba, tác giả đã kể lại công cuộc chiến đấu và sự chiến thắng của quân ta và phần bốn là lời tuyên bố chiến thắng, lời khẳng định chủ quyền, vị thế của dân tộc.
Quân xâm lược nước ta là quân Minh nhưng nhan đề bài cáo lại là "Bình Ngô đại cáo" đã thể hiện ý đồ và dụng ý nghệ thuật của tác giả. "Ngô" là từ chỉ Chu Nguyên Chương lúc đầu xưng là Ngô Quốc Công, dấy binh ở Giang Tô, đồng thời cũng chỉ nhà Ngô thời Tam Quốc, triều đại phương Bắc sang xâm lược nước ta. Nhân dân ta gọi chúng là giặc Ngô với thái độ khinh ghét, căm thù. Nhan đề "Bình Ngô đại cáo" mang ý nghĩa tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô và tâm thế chiến thắng của toàn dân tộc ta trước kẻ thù tàn ác.
Bài cáo được mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có ảnh hưởng sâu sắc từ Nho giáo:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".
"Nhân nghĩa" là tư tưởng, hành động vì con người, đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho đời sống của con người. Đời sống nhân dân no ấm, hạnh phúc thì đất nước mới có thể phát triển bền vững được. Vì vậy, những người đứng đầu đất nước phải lo việc "yên dân", "trừ bạo", dẹp yên được bọn xâm lược và cả bè lũ tay sai của chúng ở trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi nhắc đến là tư tưởng vì nhân dân mà diệt trừ cái ác đang ngự trị, chiến đấu quyết liệt để bảo vệ bờ cõi lãnh thổ, bởi:
"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có".
Nước Đại Việt ta đã có nền văn hiến từ lâu đời, có ranh giới riêng, phong tục tập quán đặc sắc và có bề dày lịch sử được sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc. Các triều đại nhà Triệu, Đinh, Lý, Trần được so sánh ngang hàng với các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc để thấy rằng dân tộc ta cũng có sức mạnh riêng chứ không phải là một dân tộc nhỏ bé, tầm thường. Các từ "từ trước", "vốn xưng", "đã chia" đa thể hiện sự tồn tại và phát triển của nước ta trong lịch sử như một điều hiển nhiên không thể chối cãi. Điều đó khiến chúng ta tự hào về chính dân tộc của mình - một đất nước được dựng xây bởi những con người hiền lành, cần cù, chất phác, có lòng yêu nước sâu sắc. Tuy rằng, các triều đại lịch sử có lúc mạnh, lúc yếu nhưng các anh hùng hào kiệt, các anh hùng phò vua giúp nước thời nào cũng có. Nhờ có họ mà quân xâm lược phải chuốc lấy bao thất bại nặng nề:
"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".
Các tướng của phương Bắc đều bị anh hùng hào kiệt nước ta "giết tươi", "bắt sống" và nhận lấy kết cục bi thảm. Những cuộc chiến ấy đã được ghi vào sử sách để làm chứng cớ đến muôn đời sau. Quân xâm lược "thích lớn", "tham công", muốn thâu tóm nước ta nhanh gọn nên bị "tiêu vong" cũng là điều tất yếu. Sức mạnh của quân và dân ta đã tiêu diệt được bọn xâm lược gian tà, hung ác. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được bộc lộ bằng giọng điệu hào hùng, các vế đối hài hòa đã thể hiện niềm tự tôn dân tộc, niềm tin vào sức mạnh của dân tộc nhỏ bé nhưng vô cùng kiên cường.
Những tội ác của giặc Minh đã được tác giả nêu lên thành một bản cáo trạng với những dẫn chứng xác thực, hùng hồn. Giặc Minh đã lợi dụng tình thế nhà Hồ lúc bấy giờ để "thừa nước đục thả câu", thực hiện âm mưu xảo quyệt của mình:
"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh".
Triều chính nhà Hồ rối ren, lục đục, vua quan không chăm lo đến đời sống của nhân dân khiến "lòng dân oán hận". Lợi dụng điều đó, quân Minh tràn vào xâm lược nước ta, bọn gian tà trong nước thì mưu đồ bán nước để cầu vinh hoa phú quý mà hèn nhát không đứng lên chống giặc.
Quân Minh đã bắt nhân dân ta phải sống trong cảnh lầm than, cơ cực với những hiểm nguy luôn đe dọa đến sự sống còn:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi".
Chúng hung tàn, vô nhân tính, dùng muôn nghìn kế để thôn tính đất nước ta. Những người dân lao động thật đáng thương, vô tội khi bị chúng dùng các thủ đoạn xảo trá để bóc lột, tàn sát. Hành động của quân xâm lược rất dã man, chúng "nướng dân đen" trên ngọn lửa để làm thú mua vui hay "vùi" họ xuống hầm tai vạ để thỏa mãn sự tàn ác. Chúng lấy tính mạng của nhân dân ta để làm trò tiêu khiển. Còn hành động nào dã man hơn như thế? Không chỉ bóc lột dân ta bằng các loại thuế khóa, giặc Minh còn vơ vét hết những sản vật quý hiếm của nước ta để phục vụ lòng tham vô đáy của chúng. Nhân dân ta bị ép xuống biển mò ngọc, vào núi tìm vàng, phải đương đầu, đối mặt với biết bao thú dữ như cá mập, thuồng luồng hay sự khắc nghiệt của rừng thiêng, nước độc. Chúng giăng lưới, chăng bẫy để bắt chim trả về làm áo, đệm và bắt hươu đen để làm vị thuốc bổ. Ngay cả đến các loài cây cỏ chúng cũng không bỏ qua. Chúng "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ", bắt nhân dân ta phục dịch xây nhà, đắp đất không ngừng nghỉ, chúng làm "tan tác cả nghề canh cửi" nhưng "máu mỡ bấy no nê chưa chán". Bấy nhiêu sự bóc lột tàn ác vẫn chưa đủ làm chúng thỏa mãn lòng tham. Chúng làm tan tác, li tán các gia đình gây nên cảnh tượng "nheo nhóc", tang thương khi những người vợ đi người chồng, những đứa con mất đi người cha,... Tội ác của giặc Minh đến cả trời đất cũng không thể dung tha, "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", "nước Đông Hải không rửa sạch mùi" dơ bẩn của chúng. Sự vô hạn của trúc Nam Sơn và nước Đông Hải cũng không so sánh được với sự man rợ, tàn ác của giặc Minh trong suốt hai mươi năm "gây binh kết oán". Tác giả dùng phép liệt kê, thủ pháp phóng đại, câu hỏi tu từ "Lẽ nào thần nhân chịu được" cùng các hình ảnh vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể để tố cáo tội ác của giặc Minh bằng một lòng căm thù sâu sắc.
Trước sự xâm chiếm của kẻ địch, vị anh hùng Lê Lợi đã "dấy nghĩa", lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống".
Không thể chung sống dưới một bầu trời cũng kẻ thù, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa chiến đấu vì đất nước, vì sự no ấm của nhân dân. Nhưng lúc "cờ nghĩa dấy lên" lại đúng lúc "quân thù đang mạnh". Hơn nữa:
"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc".
Buổi đầu dấy nghĩa, người anh hùng Lê Lợi gặp không ít khó khăn khi kẻ thù đang trong lúc mạnh, tuấn kiệt, nhân tài không có nhiều, sách lược chiến đấu thiếu người bàn bạc, đỡ đần. Số lượng nhân tài, binh lính thì ít người, lương thực cũng cạn kiệt. Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng vị chủ tướng vẫn "gắng chí khắc phục gian nan", chỉ cần sự đồng tâm, đồng lòng của nhân dân bốn cõi thì cuộc khởi nghĩa nhất định sẽ giành thắng lợi. Không có cờ, nhân dân ta lấy cần trúc làm cờ, không có nhiều rượu để khao quân, Lê Lợi đã đổ rượu xuống sông để các tướng sĩ chung sức đồng lòng uống cùng nhau "chén rượu ngọt ngào".
Lê Lợi không những tập hợp, đoàn kết được toàn dân ta mà còn biết sử dụng chiến lược để chiến đấu với kẻ thù, "lấy yếu chống mạnh", "lấy ít địch nhiều". Nhưng điều quan trọng hơn cả là Lê Lợi luôn giương cao tư tưởng nhân nghĩa:
"Đem nhân nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo".
Nhờ vào ý chí quật cường, khắc phục mọi khó khăn và tinh thần chiến đấu quyết liệt mà nghĩa quân đã giành được những chiến thắng vang dội:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng".
Quân ta chiến đấu với sức mạnh và khí thế quyết liệt khiến quân giặc tan tác dễ dàng, nhanh chóng như chẻ tre, tro bay. Bốn viên tướng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính của nhà Minh thấy vậy mà "mất vía", "nín thở cầu thoát thân", các tướng khác thì bỏ mạng, đầu hàng. Các trận đánh ở Chi Lăng, Mã An, Cần Trạm,...đã khiến các tướng quân Minh phải tự vẫn, tử vong, "trói tay xin hàng", "xéo lên nhau chạy để thoát thân". Tinh thần chiến đấu của nghĩa quân được Nguyễn Trãi khắc họa qua hai câu văn:
"Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông".
Sức mạnh ấy đã khiến "Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng", đô đốc Thôi Tụ thì "dâng tờ tạ tội". Sự chiến thắng của quân ta đã làm "sắc phong vân phải đổi", "ánh nhật nguyệt phải mờ", thây của quân giặc "chất đầy đường", máu của quân giặc thì "trôi đỏ nước". Quân ta đã có được chiến thắng đáng nể phục và oai hùng biết nhường nào. Từ một người bình thường xuất thân ở "chốn hoang dã", người anh hùng áo vải Lê Lợi đã trở thành một vị chủ tướng tài giỏi với các chiến lược dùng binh đánh giặc. Đặc biệt, vị chủ tướng ấy còn khiến chúng ta khâm phục bởi ý chí sắt đá, khắc phục mọi khó khăn và hành động nhân nghĩa của ông khi cấp cho Mã Kì, Phương Chính năm trăm chiếc thuyền ra bể, phát cho Vương Thông, Mã Anh vài nghìn cỗ ngựa để về nước mà bọn chúng vẫn "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run". Chúng không thể tin được rằng người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nước ta lại mở cho chúng một con đường sống, một con đường để thoát thân về nước. Đó là "mưu kế kì diệu" của Lê Lợi để nhân dân ta được "nghỉ sức" và cũng là để giữ hòa khí giữa hai nước.
Miêu tả các trận đánh của quân ta, tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run" ..., các tính từ chỉ mức độ như "thây chất đầy đường", "máu trôi đỏ nước", "đầm đìa máu đen", "khiếp vía vỡ mật",...và thời gian, địa điểm các trận đánh được liệt kê để nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của giặc Minh. Ông thể hiện rõ thái độ mỉa mai kẻ thù khi gọi chúng là "thằng nhãi con Tuyên Đức", "đồ nhút nhát Thạnh ,Thăng".
Phần cuối cùng của bài cáo là lời tuyên bố, khẳng định nền độc lập của dân tộc:
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
u cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay".
Dẹp yên giặc Minh, đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, bế tắc rồi lại thông suốt, nhật nguyệt tối rồi lại sáng. Đó là quy luật vận động tất yếu của lịch sử, quy luật phát triển thịnh - suy của mỗi quốc gia. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên mới để dựng xây đất nước Đại Việt ngày càng hưng thịnh dưới triều vua Lê Lợi. Nhờ "trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ" nên mới có chiến thắng vẻ vang đến như vậy. Sức mạnh, sự phù trợ của đấng linh thiêng cùng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được giặc Minh làm cho đất nước sạch bóng quân thù. Một đất nước sẽ phát triển bền vững nếu có các chính sách chăm lo đến đời sống dân chúng một cách phù hợp.
Với bố cục chặt chẽ, sự đăng đối hài hòa ở các câu văn và giọng điệu chính luận tài tình, "Bình Ngô đại cáo" không chỉ tố cáo tội ác của quân Minh mà còn ngợi ca sự chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã đề cao tư tưởng nhân nghĩa "yên dân", "trừ bạo" và tư tưởng lấy dân làm gốc để phát triển dân tộc ngày càng hưng thịnh.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 4
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi chúng ta không thể nào không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc và được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo - một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc với bố cục, kết cấu chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.
Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt bài cáo đó chính là nhân nghĩa - một phạm trù tư tưởng có nguồn gốc từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân”, “trừ bạo’. Có thể nói, đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lí độc lập khách quan, làm sơ sở lý luận vững chắc để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nêu lên tư tưởng của bài cáo.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến, phong tục Bắc Nam từ ngàn đời nay. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả đã đặt các triều đại của ta, dân tộc ta ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả Nguyễn Trãi. Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lý khách quan cho nền độc lập của nước ta, tác giả còn tái hiện lại những trang sử vẻ vang, hào hùng với những chiếc thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt chặng đường lịch sử trước đó.
Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính nghĩa đã nêu, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã đi sâu vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thủ. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả Nguyễn Trãi còn tố cáo, vạch rõ những hành động, những tội ác dã man của bọn giặc trên hầu khắp tất cả các lĩnh vực bằng những hình ảnh, những từ ngữ độc đáo. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả Nguyễn Trãi kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ hành động giết người mạn rợn, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen’, “con đỏ” - những người vô tội, chúng cũng không nương tay. Tất cả những điều đó đã cho thấy hành vi giết người không ghê tay của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy những người dân đen kia vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy, những nơi mà khi đã bước vào đấy sẽ không biết có ngày trở lại hay không.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.
Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện ở những chính sách thuế khóa nặng nề và hết sức vô lý cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan tự nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước ta.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
....
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.
Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh chân thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác, những hành động man rợ, ghê người của bọn giặc minh xâm lược. Và để rồi, tất cả những tội ác ấy được tác giả khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng giúp chúng ta thấy được thái độ căm phẫn đến tột cùng của tác giả.
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Không chỉ dừng lại ở vạch rõ những tội ác của kẻ thù, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi còn tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc quá trình kháng chiến và giành chiến thắng của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc, lai lịch, xuất thân của người anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn, lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta - “căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng ấy không chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình tất cả niềm tin và một con đường đấu tranh kiên định, góp phần đi đến thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của quân và dân ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân của ta gặp phải muôn vàn những khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế, “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”,... Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những khó khăn thử thách ấy để đạt được nhiều thắng lợi vang dội. Tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến công ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An,... và hàng loạt, hàng loạt những chiến thắng cứ thế liên tiếp nhau diễn ra.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khanh cùng kế tự vẫn.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình tướng vị chủ tướng Lê Lợi cùng những khó khăn mà nghĩa quân của ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt,sau khi chiến thắng, nghĩa quân của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận đề chính nghĩa mà nghĩa quân của ta trọn đời theo đuổi. Và để rồi, trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay
Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ấy không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ngợi ca và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kỳ mới.
Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình. Trải qua chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 5
“Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta, là bản anh hùng ca bằng thể văn biền ngẫu, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, kể tội quân xâm lược, ngợi ca anh hùng, hào kiệt và võ công trừ bạo của dân tộc ta.
Bài đại cáo còn là khúc trữ tình thiết tha trước nỗi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. Cáo là một thể văn cổ có từ thời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là “cáo mệnh”, “cáo phong”, “cáo giới”… đại cáo vốn là tên một thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương., phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể loại văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. đặt tên bài văn này là “bình ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi vừa muốn dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô quốc công, do vậy quân nhà Minh được gọi là quân Ngô. Tên bài này có nghĩa là tuyên bố về sự nghiệp đánh dẹp giặc Ngô.
Là một thể văn như có tính quan phương, không nhất thiết bài cáo nào cũng có giá trị văn học. Nhưng vì tầm tư tưởng lớn lao, sự kiện trọng đại và lời văn hùng hồn, khảng khái, bài “bình ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi làm thay lời Lê Lợi đã trở thành một thiên anh hùng ca bằng văn tứ lục.
Mở đầu bài cáo, tác giả tuyên bố ngay lập trường chính nghĩa của mình:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hai câu này có nghĩa là: việc nhân nghĩa cốt làm cho nhân dân được yên, mà muốn cho dân yên thì trước hết fải lo tiêu diệt quân tàn bạo. tư tưởng đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Cho nên, tiếp theo, bài cáo nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại “từ triệu Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập”, đời nào cũng có hào kiệt đứng lên trừ bạo để yên dân. kết wả là Lưu Cung đời Hán thất bại, Triệu Tiết của Tống tiêu vong. Toa Đô, Ô Mã đời Nguyễn kẻ bị giết, người bị bắt. đáng chú ý ở đoạn này là ngay từ đầu Nguyễn Trãi khẳng định đó là truyền thống văn hoá Đại Việt. “Đại Việt” là quốc hiệu của nước ta thời Lý, thời Trần. Đời nhà Đinh đặt quốc hiệu là “đại Cồ Việt” cũng theo tinh thần đó. Đồng thời ông cũng khẳng định mỗi đằng “làm đế một phương”, đối chọi với Bắc đế, nối tiếp truyền thống của Lý Nam Đế, Lí Thường Kiệt đời trước. như vậy, bài đại cáo mở đầu không chỉ với tư tưởng nhân nghĩa, mà còn với tư thế của một quốc gia có chủ quyền. Phần mở đầu nhằm khẳng định sự nghiệp Lê Lợi là sự kế tục vẻ vang của các truyền thống đó.
Phần hai của bài nói đến tội ác của giặc và tình cảnh khốn khó của nhân dân và Đất nước dưới ách thống trị của giặc Minh. Cuộc đánh dẹp nào cũng phải có lí do, mà lý do chính đáng nhất là tội ác của quân thù và nỗi khốn khó của nhân dân. Tác giả đã dùng mười hai cặp đối để tố cáo kẻ thù và phơi bày nỗi khổ nhục của nhân dân. Đáng chú ý nhất là tính chất huỷ diệt tàn bạo tột cùng của quân xâm lược:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
“Dân đen”, “con đỏ” là hình ảnh ước lệ chỉ người dân trăm họ, vô tội. Quân giặc xem dân ta như dê, như cừu, mặc sức tàn hại. Chúng dối trời, lừa dân, gây binh, tính át trong hai mươi năm làm cho nhân nghĩa bại hoại, đất trời tan nát. Không có gì không bị huỷ diệt tàn bạo:
“Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”
Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng
Nhìu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt”
“Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ”
Tan tác cả nghề canh cửi…”
Số phận thê thảm của nhân dân được nhắc tới với một tình cảm xót thương sâu nặng:
"Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc”.
“Nặng nề những nỗi phu phen”
“Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”.
Tác giả đã khắc họa một bức tranh khái quát về tội ác chống chất của kẻ thù, mà “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, “Nước Đông Hải không rửa hết mùi”.
Người xưa chép sách và thẻ tre. Tội ác của giặc Minh cho dù chặt hết trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội. “Khánh trúc nam thư” là thành ngữ của Lã Thị Xuân Thu, người Trung Quốc thường dùng để kể tội ác quân giặc trong các bài thơ, hịch, ở đây dùng để vạch tội ác giặc Minh, thật là đắc dụng. Đoạn kể tội kẻ thù được kết thúc bằng vế đối vang dội, đầy tính kích động như một lời hịch:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được”
Phần thứ ba của bài cáo là công bố quá trình dấy binh và kháng chiến thắng lợi. Đây là phần trữ tình và sảng khoái nhất của bài văn.
Đoạn một của phần này gồm mười lăm cặp đối nói về ý thức sứ mệnh và buổi đầu dựng nghiệp khó khăn của Lê Lợi. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh người anh hùng dân tộc, một hình tượng trữ tình cao cả, thống nhất.
Bằng phương thức tự giới thiệu, bài đại cáo khắc hoạ tấm lòng, chí khí, tài trí, mục đích đầy nghĩa của Lê Lợi. Bằng một loạt vị ngữ, đoạn văn thể hiện thế giới nội tâm phong phú. Một lời tự giới thiệu thật dõng dạc:
“Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
Một ý thức sứ mệnh tự giác xem mối thù của nước, nỗi đau của trăm họ như của chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt hai mươi năm.
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối”
“Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc lấy lại nước nhà:
Những trằn trọc trong cơn mộng mị
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”
Những hình ảnh “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, “trằn trọc trong cơn mộng mị” làm nhớ tới gương chịu đựng gian khổ, nung nấu ý chí chiến đấu vì đại nghĩa.
Những nỗi gian nan, khó nhọc buổi đầu như thiếu người, thiếu quân, thiếu lương thảo đã thử thách tinh thần nhẫn nại, đức quý trọng hiền tài và khả năng tập hợp của Lê Lợi. Người tài như sao buổi sớm, như lá mùa thu, vốn rất hiếm, còn tấm lòng cầu mong của Lê Lợi cũng rất chân thành “Cổ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả”.
Bên trái là chỗ ngồi tôn quý mà Ngụy công tử Tín Lăng Quân dành để mời người gác cửa thành là Hậu Doanh cộng tác với mình. Nhưng càng chờ đợi, “người càng vắng bóng”, và vai trò chủ động của minh chủ Lê Lợi càng nổi bật.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Cuối cùng, người anh hùng đã tập hợp được nhân dân dưới cờ đại nghĩa của mình, tạo thành một khối đoàn kết tuyệt đẹp:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ từ, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Hình ảnh “dựng cần trúc làm cờ” nói lên tích chết cuộc khởi nghĩa của nhân dân, đứng lên vì nghĩa lớn. hình ảnh “hoà nước sông chén rượu ngọt ngào” thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.
Đồng thời Lê Lợi đã có một chiến lược, chiến thuật hết sức đúng đắn:
“Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.
Đoạn hai của phần bài kể về cuộc phản công thắng lời. Đây là đoạn hào hứng, sảng khoái của bài cáo: nhưng thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể ra với một giọng hả hê, tự hào. Ở đây tiếp tục xuất hiện hình tượng người lãnh tự thao lược, hình tượng uy lực của nghĩa quân, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh thất bại nhục nhã của quân giặc.
Tác giả không giản đơn kể lại bản tin chiến sự hay bản tổng kết chiến thắng mà còn đem lại niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Lê Lợi “thay trời hành đạo”, tự cảm nhận được uy lực của nghĩa quân mạnh như uy trời, không một sức mạnh nào chống đỡ được:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”
Các hình ảnh “đá núi mòn”, “nước sông cạn”, “sạch không kinh ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô”, “sụt toang đê vỡ” gọi lên một sức công phá mạnh mẽ, phi thường của nghĩa quân và sự sụp đổ không cách gì chống đỡ được của quân giặc. Đó là những ẩn dụ thể hiện quy mô vũ trụ, khổng lồ của sức mạnh chính nghĩa.
Cùng với các hình thức khổng lồ, hùng vĩ và hình tượng về nhịp độ chiến thắng mau lẹ như trúc chẻ ngói tan khiến địch trở tay không kịp, cách vài ngày một chiến thắng, cách vài ngày giết một tướng giặc.
Hình ảnh thất bại của quân giặc thể hiện rõ rệt nhất cho sức mạnh của quân ta. Những kẻ sống thì kinh hồn bạt vía.
Hình ảnh Lê Lợi điều binh khiển tướng khẩn trương, sáng suốt, chủ động, mau lẹ, túc trí đa mưu.
Trái với kẻ thù đã “trí cùng lực kiệt”, Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt, tâm công”. “chẳng đánh mà người chịu khuất, ta nay mưu phạt, tâm công”. Cả câu này không chỉ nói chiến thuật mà còn nói về chiến lược: Lê Lợi không muốn dùng vũ lực để đánh, mà muốn “phạt mưu, tâm công” trước, nhưng quân giặc thất bại cũng không biết hối cải, còn bày thêm mưu kế, chuốc tội gây oan, cho nên Lê Lợi mới đánh đuổi đến cùng. Đến đây, Lê Lợi bộc lộ một thiên tài quân sự lỗi lạc:
“Thừa tướng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
Tuyển binh tiến đánh. Đông Đô đất cũ thu về”
“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”.
Ta đánh thắng nhưng không hiếu sát, không hiếu chiến, mà rộng lòng hiếu sinh, yêu hoà bình, lập kế lâu dài.
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
…………………
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Quân giặc tha về vẫn còn kinh hồn, bạt vía, tạo thành âm vang lâu dài của chiến thắng vĩ đại.
Tóm lại, tác giả không chỉ thuật lại chiến thắng, mà chủ yếu khắc hoạ uy vũ của chiến thắng, tầm vóc của chiến thắng, ảnh hưởng lâu dài của chiến thắng và nhất là vẻ đẹp của nhân nghĩa, trí dũng của người chiến thắng. những đặc điểm này đem lại màu sắc anh hùng ca cho bài cáo.
Phần cuối cùng bày tỏ niềm tin vào nền hoà bình lâu dài của đất nước, cảm ơn trời đất, tổ tiên phù hộ.
Bài “Bình ngô đại cáo” không chỉ hay vì phản ánh chiến thắng oanh liệt, thể hiện tầm vóc lớn lao của tư tưởng nhân nghĩa, mà còn hay vì ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu. trong bài văn này, các cặp đối tề chỉnh, nhịp văn tứ lục đã phát huy tác dụng thẩm mỹ cao độ trong việc xây dựng những hình tượng kì vĩ mang tính chất sử thi, thấm nhuần những tình cảm lớn của dân tộc. Bình Ngô đại cáo quả là một thiên anh hùng ca bằng văn biền ngẫu.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 6
Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.
Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm cự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kỳ phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.
Trước hết, Bình ngô đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.
Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần:
Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thống bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)
Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).
Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiển hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến cũng là chưa thấy xưa nay).
Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thuở phồn vinh (tiếp theo đến hết).
Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sống nhân dân, đến hạnh phúc của mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đẳng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muốn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô - Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc.
Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu kết với bọn Việt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấy mỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cả nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.
Phần thứ 3 thuật lại quá trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn dấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng còn mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.
Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng, quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lực sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng, do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta:
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ:
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể
Vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước
Mà vẫn tim đập chân run.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hiền hoà tươi vui:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ.
Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hóa, giọng điệu linh hoạt, diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 7
Vua Lê Thánh Tông đã từng đề cao: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới, đánh giá như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Các tác phẩm là sự kết hợp hài hoà của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết phục với tư tưởng lấy dân làm gốc.
Một trong số tác phẩm của ông thể hiện rõ điều này là tác phẩm Bình Ngô đại cáo.Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình.
Bình Ngô đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam. Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình.Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác. Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ.
Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại- dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia. Nhân nghĩa còn là “trừ bạo”, bạo chính là quân nhà Minh, bọn gian tà chuyên đi hà hiếp nhân dân. Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi ‘dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc.
Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù. Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lý.
Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khẳng định chân lý này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài.
Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. “Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác.
Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc, điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình.
Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thôn tính Đại Việt.Để làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”,“đã chia”, “cũng khác”.
Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để.Khẳng định nền độc lập và tư tưởng của mình, ông nêu ra các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:
Vậy nên: Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Ở đoạn thơ này, Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
Nội dung được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muốn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “Hàm Tử”, “Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức: “Lưu Cung... tham công”, “Triệu Tiết... thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Tất cả những trang sử hào hùng, vẻ vang ấy, đều đã được sử sách ta cẩn thận ghi lại, không thể chối cãi, và không ai có thể thay đổi. Trong suốt toàn bài Đại cáo bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ rõ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Lợi dụng việc chính trị rối ren, giặc Minh cấu kết với bọn Việt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, xâm phạm chủ quyền dân tộc, còn gây ra bao tội ác tày trời:Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấy mỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội.
Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Lòng tham vô đáy, chúng đã gây nên nỗi đau ghê gớm cho dân ta lúc bấy giờ, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại không còn lại gì (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy con người ta vào tình cảnh thê lương, khốn cùng (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng)...
Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Ông đã vạch trần bản chất thực của kẻ xâm lược bằng những câu văn phẫn nộ, bi thương. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.
Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau: Xuất thân bình thường; Khởi đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì; Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân; Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình; Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động. Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.
Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng còn mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội)... Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn..., chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân.
Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lực sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ.
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Hình ảnh quân ta lúc này hiện lên với lực lượng đông đảo, ý chí mạnh mẽ kiên cường, tầm vóc lồng lộng nơi vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Những cái “danh” không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã: Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh... Tất cả làm nên một khung cảnh chiến trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vô cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa hoà bình, không thích cảnh binh đao:
Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Quân giặc đã “tham sống sợ chết”, ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm “dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo” của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận có sức mạnh hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hoà hiếu.
Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn hiền hoà tươi vui Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới.Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê.
Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện với “những sự đổi thay” nhưng cũng như càn khôn “bĩ rồi lại thái”, như nhật nguyệt “hối rồi lại minh”. Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là “muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”. Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão giông, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào quân xâm lược, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã.
Bài cáo đã ghi lại một thời kỳ đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.
Tóm lại, tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 8
Sau khi cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thắng lợi vào cuối năm 1427, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi soạn Đại cáo bình Ngô nhằm tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những tháng năm gian khổ, những chiến công hiển hách và ban bố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết bằng thể cáo vốn có nguồn gốc ở Trung Quốc từ thời cổ.
Đây là một thể loại văn chương chính luận, một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn đã được chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư (1479). Cũng như nhiều tác phẩm khác dưới thời trung đại, nhan đề bài cáo không phải Lê Lợi hay Nguyễn Trãi đặt mà do người đời sau thêm vào.
Trên thực tế, ngay trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ: Vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ, lời cáo viết…”. Như vậy tinh thần “Bình Ngô đại cáo” cũng đã được nhận thức từ rất sớm và đi vào tâm trí của nhiều thế hệ người đọc. Nhưng vì sao người xưa không nói “bình giặc Minh” mà lại nói “bình Ngô” ? Bản thân chữ “Ngô” không phải là cách gọi giặc phương Bắc hay mượn lối nói nôm na “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” mà nhằm một ý khác sâu xa hơn.
Nguyên do bởi người lập ra triều Minh vốn tên Chu Nguyên Chương, suốt sáu năm trời trước khi lên ngôi Minh Thái Tổ đã từng xưng hiệu Ngô Vương. Bởi thế cách dùng từ “Ngô” ở đây chính là nhằm gọi đích danh vương hiệu thuỷ tổ nhà Minh và thể hiện thái độ khinh khi kẻ xâm lược. Ngay cả với ông tổ nhà Minh còn bị gọi tên như thế thì có sá gì không miệt thị vua Tuyên Tông đang tại vị: “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng – Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy”,…
Tiếp cận Đại cáo bình Ngô, người đọc hiện đại ngày nay cần chú ý rằng đây là tác phẩm văn chương chính luận điển hình dưới thời trung đại. về hình thức, tác phẩm được viết bằng lối văn biền ngẫu chữ Hán, gồm 74 liên (148 vế câu), phát huy sức mạnh thể văn tứ lục biến cách, giá trị biểu cảm, biểu âm, biểu nghĩa trong từng câu, từng khổ thơ và tạo nên khúc ca hùng tráng. Điều quan trọng hơn, tác phẩm có ý nghĩa kết tinh truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm và đặc điểm tư duy, quan niệm, nhận thức của con người trong thời trung đại về cơ sở lịch sử, văn hoá, xã hội, đất nước, dân tộc.
Rõ ràng bài cáo được viết theo lệnh nhà vua và dưới danh nghĩa lời tuyên cáo của vua với chúng dân, thế tất nội dung phải thể hiện được tiếng nói của nhà vua trong vai trò người cầm quyền. Toàn bộ nội dung tác phẩm Đại cáo bình Ngô toát lên tinh thần nhân nghĩa phù hợp với thiên mệnh, đạo trời; hành động của nhà vua phù hợp với ý nguyện trăm họ, chuyển hoá thành sức mạnh đánh tan quân xâm lược.
Cần chú ý rằng ngay từ câu mở đầu bài cáo đã nhấn mạnh vai trò người cầm quyền, người có trách nhiệm, đấng bề trên coi sóc và chăm nuôi muôn dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Quan niệm “nhân nghĩa” phải hướng tới “yên dân” (làm cho dân yên) cho thấy chủ thể của “nhân nghĩa” không thể là số đông chung chung mà chỉ có thể là công việc lớn lao của bậc thức giả, vua chúa. Có thể khẳng định đây là một quan niệm tiến bộ nhưng trước sau vẫn không thể vượt qua được những quy định và giới hạn tất yếu của lịch sử.
Khi tiếp cận Đại cáo bình Ngô nói riêng cũng như mọi tác phẩm văn học thời trung đại cần đặt tác phẩm vào chính môi trường lịch sử, văn hóa đương thời mới hiểu đúng nội dung cũng như đánh giá đầy đủ những giá trị và bước tiến vượt bậc về tư tưởng so với quá khứ. Ngoài ra cũng cần đặc biệt chú ý tới đặc trưng “văn – sử – triết bất phân” thể hiện rất rõ trong bli cáo.
Những đặc điểm về văn học thể hiện nổi trội so với tư duy lịch sử (ghi chép các sự kiện, nhân vật, địa danh theo hình thức biên niên sử, theo tuyến tính thời gian,…) và triết học (quan niệm về nhân nghĩa, mệnh trời, thời vận, thời thế, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân,…). Với Đại cáo bình Ngô, từ điểm nhìn dưới ánh sáng của loại hình học văn hoá trung đại vừa mang tính chuyên sâu vừa hướng tới liên ngành, tổng quát, khái quát sẽ giúp người đọc khám phá đúng đắn những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, đa diện và phong phú của tác phẩm.
Trong phần mở đầu, bài cáo khẳng định nền độc lập dân tộc, quyền tự chủ và truyền thống lâu đời bởi những khác biệt về văn hoá, về cương vực lãnh thổ, về phong tục tập quán và sự tự ý thức về sức mạnh dân tộc. Nguyễn Trãi đã khái quát phẩm chất người cầm quyền phải biết lấy yên dân làm cốt lõi của nhân nghĩa, trọng tâm của sự yêu thương con người và tôn trọng lẽ phải, mọi hành động phải hướng đến thương xót, cứu giúp trăm họ và kiên quyết chống kẻ tàn bạo. Đó là nguyên cớ của cuộc khởi nghĩa và cũng là truyền thống của cả một dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Củng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Giới nghiên cứu lâu nay đã khẳng định bài cáo có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, đứng sau bản thứ nhất là bài Nam quốc sơn hà tương truyền của Lý Thường Kiệt (?) Trên những nét cơ bản, đoạn văn trên đã bao quát được những nội dung cốt yếu trong định nghĩa về dân tộc được coi là kinh điển của I.V.Xtalin: “Dân tộc là một khối cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn định, hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung biểu hiện trong một nền văn hoá chung” (Tử điển triết học).
Nguyễn Trãi còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò con người và sự tiếp nối của các thế hệ hào kiệt, bất chấp mọi hung vọng, thắng thua, mạnh yếu. Điều đó làm nên truyền thống yêu nước và dòng chủ lưu của nền văn học yêu nước mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Từ việc ôn lại quá khứ xa đến nhắc lại quá khứ gần, Nguyễn Trãi kể rõ nguyên nhân mất nước và tội ác quân Minh trên tất cả các phương diện: tàn sát dân lành, áp bức chúng sinh, nặng thuế khoá, triệt hại môi trường sinh thái tự nhiên, phá hoại ngành nghề truyền thống, cướp bóc để thoả mãn cuộc sống? xa hoa hưởng lạc… Rồi ông đi đến khái quát:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Trước tội ác giặc Minh khiến cả trời và đất, thần và người đều căm giận, Nguyễn Trãi hoá thân trong vai trò chủ tướng Lê Lợi kể về những ngày đầu nung nấu ý chí đánh giặc cứu nước:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không còn sống…
Giọng văn hoài cảm thiết tha, đầy những trăn trở lo toan và trở nên hài hoà hơn trong khí thế bốn phương đoàn kết một lòng, nghĩa tình tướng sĩ gắn bó keo sơn và mưu lược đánh giặc:
Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo vận nước khó khăn.
….
Nhân dân bốn cối một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều…
Ngay trong bản dịch, những cách dùng từ lặp lại: “Phần thì giận… Phần thì lo…”, “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần – Khi Khôi Huyện quân không một đội”,… cho thấy mức độ căng thẳng trong suy nghĩ cũng như khả năng đối phó với mọi khó khăn, biến cố đang dồn dập xảy ra. Cách nghĩ: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn – Ta gắng chí khắc phục gian nan” thể hiện sâu sắc quan niệm triết thuyết Nho giáo “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân hợp nhất”, “Đại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá” (Trời và người liên thông, cảm ứng với nhau, trời và người hợp thành một thể thống nhất; bậc thức giả có thể thay trời hành đạo, giáo hóa chúng dân).
Rõ ràng đây là cách nghĩ nằm trong truyền thống tư tưởng Nho giáo nhằm suy tôn, linh thiêng hoá, huyền thoại hoá và vũ trụ hoá uy quyền nhà vua. Trước khi chuyển sang mô tả giai đoạn tấn công, thêm một lần Nguyễn Trãi khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, lẽ phải của quân ta nhất định sẽ chiến thắng quân giặc mang bản chất phi nghĩa và tàn bạo.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đạo quân đem “đại nghĩa” (lẽ phải, nghĩa lớn, nghĩa cao cả) và “chí nhân”, hết lòng yêu thương, vị tha, trân trọng con người tất yếu sẽ chiến thắng. Từ đây những địa danh gắn với chiến thắng (Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động) và danh tính những tên tướng giặc bại trận (Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Trần Hiệp, Lý Lượng) nối tiếp được nêu lên phản ánh bước tiến của đạo quân không gì ngăn cản nổi:
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cũng lực kiệt;
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ,
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan…
Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trãi đã nói lên được tư tưởng quân sự vừa mang tính chiến lược vừa là sự thể hiện nghệ thuật dụng binh bậc thầy. Riêng chữ mưu phạt có nghĩa là “đánh bằng mưu trí”, tâm công nghĩa là “đánh vào lòng người”. Binh pháp xưa khẳng định: “Trong phép dụng binh thượng sách là phạt mưu…, thượng sách là công tâm”. Vấn đề đặt ra là sách xưa chỉ có hai từ phụt mưu và công tâm mà không sử dụng lối diễn đạt mưu phạt và tâm công. Vậy phải chăng Nguyễn Trãi đã dùng phép đảo trang để câu thơ vẫn giữ được ý người xưa mà lời thơ vẫn nhuần nhuyễn, âm điệu vẫn hài hoà “Ngã mưu phạt nhị tâm công, bất chiến tự khuất”.
Thế nhưng rất có thể Nguyễn Trãi đã không trình bày nội dung tâm công theo nghĩa truyền thống (đánh vào lòng người) mà đã sáng tạo và nâng cấp lên một trình độ nhân văn theo cách hiểu tâm công là “đánh bằng tấm lòng”, “tấn công bằng tấm lòng”, lấy tấm lòng nhân nghĩa mà giải thích, dùng lí lẽ để thuyết phục, cảm hoá, mở đường sống cho đối phương. Điều này càng trở nên có lý khi nối giữa hai từ này là liên từ chuyển nghĩa nhi (mà) biểu cảm sắc thái đối lập nhau và cả câu có thể được dịch xuôi: Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây đánh giặc bằng mưu trí nhưng lại tấn công bằng tấm lòng.
Tầm tư tưởng lớn thể hiện ở chỗ về lý thì đánh giặc bằng mưu trí nhưng về tình, xét trên phương diện nhân văn, thì dùng tấm lòng cảm hoá, mở mắt cho giặc hiểu rõ điều nhân nghĩa, đúng sai. Chính người đề cao nhân nghĩa, chủ động đứng trên tầm cao nhân nghĩa mới thấy hết hậu quả và lấy làm tiếc cho lối nghĩ cạn hẹp của giặc thù: “Tưởng chúng biết lễ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ – Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan”. Đó không phải là sự ngây thơ, ảo tưởng mà là tấm lòng nhân nghĩa cao cả của bậc thức giả, từ tầm cao nhân văn vẫn mong mở đường sống cho kẻ thù, nhưng nếu chúng vẫn còn ngoan cố thì tiếng nói của lý trí sẽ nổi lên diệt trừ không thương tiếc.
Nếu như ở đoạn trên, những tên người và địa danh đứng biệt lập trong từng câu thơ thì với toàn bộ phần sau, nhiều câu thơ lại xuất hiện đồng thời cả thời gian ngày tháng, tên người và tên đất. Ngay cả đến tên hiệu vua nhà Minh cũng bị vạch mặt gọi tên, chỉ rõ hành vi phản phúc: “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng”. Mặt khác, cách thức liệt kê thời gian theo trình tự biên niên sử tạo nên cảm giác về các sự kiện, biến cố thay đổi dồn dập. Chiến công nối tiếp chiến công với đủ các cách đánh công đồn diệt viện, chốt giữ nơi hiểm yếu, chặn đường cắt nguồn lương thực. Có được chiến thắng ấy là nhờ ở sự đoàn kết, sức mạnh của chính con người và ý chí đánh giặc:
Sĩ tốt kén người hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông…
Trong trận chiến quyết liệt này, biết bao những uy danh như Bá tước, Thượng thư, Đô đốc gắn với từng tên tuổi tướng giặc đều phải chịu thất bại thảm hại. Những hình ảnh ẩn dụ: đá núi mòn, nước sông cạn, sạch không kình ngạc, tan tác chim muông, trút sạch lá khô, sụt toang đê vỡ,… thể hiện sức mạnh chính nghĩa ở tầm vóc quy mô vũ trụ của nghĩa quân, trong khi thất bại của kẻ thù được đo đếm bằng các từ ngữ cụ thể, biểu cảm bằng những hình ảnh, động tác, hành vi xác thực, đời thường và tầm thường: lê gối dùng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hùng, thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, nghỉ ngờ khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân, tan tành, khốn đốn, quay gót chẳng kịp, cởi giúp ra hàng, hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,… Những địa danh đất nước thì gắn liền với chiến thắng của quân ta và thất bại của giặc thù, đưa đến lời cảm thương mang tầm vóc đất trời, vũ trụ:
Lụng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ…
Trong toàn bộ phần trên đây, những câu ngắn dài đan xen nhau, biến hoá linh hoạt tạo nên âm điệu như hồi trống trận, khi thúc giục khi ngân vang, khi đanh thép, khi bi ai thương cảm. Dễ thấy những câu văn thể hiện sức mạnh và không khí chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn thường ngắn gọn, âm hưởng mạnh mẽ, dứt khoát; những câu mô tả thất bại của kẻ thù thường kéo dài, mang tính liệt kê, trình bày, dẫn giải. Đáng lưu ý là các thủ pháp nghệ thuật so sánh, tương phản, liên tưởng, cực tả giúp cho các câu văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh, dễ đi vào lòng người.
Sau khi đánh tan quân giặc, thêm một lần nữa Nguyễn Trãi nhấn mạnh tinh thần nhân nghĩa, lấy tấm lộng mà đối xử với kẻ thù ngay cả khi chúng ở vào thế cùng lực kiệt: “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”. Với tầm suy nghĩ xa rộng của bậc thức giả, ông xác định rõ mục đích hoà hiếu: “Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức” (Dư dĩ toàn quân vi thượng nhi giữ dán đắc tức).
Quan điểm lấy dân làm gốc, ý thức “khoan dân”, nới sức dân đã được Nguyễn Trãi hết sức coi trọng. Điều này thể hiện tầm trí tuệ uyên bác nhưng đồng thời cũng là bài học lịch sử mà chính ông đã chứng kiến, nghiệm sinh trong thời nhà Hồ, thấy rõ cọc gỗ, lưới giăng cửa biển cũng vô ích và sức mạnh nhân dân mới là vô địch: “Lật thuyền mới rõ dân như nước” (Đóng cửa biển).
Đến phần kết, bài cáo trở lại nội dung quan phương và tuân theo những quy phạm về mặt thể loại. Câu thơ trở nên hoành tráng, chuẩn mực, giọng điệu khoa trương để nhấn mạnh thời thế lịch sử đã chuyển sang một trang mới và khẳng định sự trường tồn của dân tộc: “Xã tắc từ đây vững bền – Giang sơn từ đây đổi mới… Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn thu vết nhục sạch làu”. Ngay ở lời kết này, tư duy hướng về lực lượng siêu nhiên Trời – Đất – Tổ tông tiếp tục được nhấn mạnh: “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy”.
Trên cả hai chiều thời gian và không gian, chiến thắng lần này sẽ còn vang vọng tới mai sau và đem lại cuộc sống an bình cho mọi miền non sông đất nước: “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm – Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”,… Tác phẩm Đại cáo bình Ngô được coi là “bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc”, “thiên cổ hùng văn”, “bản hùng ca lẫm liệt”, “một văn kiện chính trị có V nghĩa lịch sử lớn” và thuộc “một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ”,. .
Do tính quy phạm của một tác phẩm thuộc thể cáo cho nên các phương diện thuộc về hình thức nghệ thuật thường ít có điều kiện được triển khai tìm hiểu. Hơn nữa, bản thân cách phiên dịch, cách hiểu, cách giải thích chiều sâu từng câu chữ văn bản cho đến nay vẫn chưa phải đã đến thấu đáo, toàn diện, chính xác. Tuy nhiên, chính nhờ giá trị tự thân mà Đại cáo bình Ngô cứ mãi toả hào quang, mãi cuốn hút mọi thế hệ người Việt Nam yêu nước và yêu văn chương.
Có thể nói rằng, với một tác phẩm không dài, lại được viết bằng lối văn biền ngẫu song Đại cáo bình Ngô đã có được sức vang hưởng vô cùng rộng lớn, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần, bản lĩnh văn hoá và nền văn hiến dân tộc. Vì lẽ đó mà tác phẩm được các thế hệ đón nhận, ngợi ca, luận bình và được giảng dạy rộng rãi trong nhà trường.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 9
Đọc thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu cảm nhận: “Trán thi sĩ chạm mây nhưng ruột thơ thì cháy lên một ngọn đời hồng rất ấm”. Cái hay trong những câu thơ của Nguyễn Trãi là dẫu mang tầm vóc của một vị anh hùng dân tộc nhưng vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi sự xuyên thấm và chân thực của nó. Một trong những tác phẩm đi vào lòng người đọc bao thế hệ của ông, là một “thiên cổ hùng văn”, đó chính là “Bình Ngô đại cáo”.
Cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ” (trích “Đại Việt sử ký toàn thư”), Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết bài cáo để tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những năm tháng gian khổ, những chiến công hiển hách và ban cố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết theo thể cáo, một thể loại văn chương chính luận có nguồn gốc ở Trung Quốc thời trung cổ ban cố những sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Bài cáo là sự kết hợp tuyệt diệu giữa mục đích chính trị với nghệ thuật văn chương, sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng: chính trị và sáng tạo nghệ thuật.
Đầu tiên, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa của dân tộc.
Luận đề chính nghĩa trước hết được phát biểu qua tư tưởng nhân nghĩa mở đầu bài cáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;”
Nhân nghĩa vốn là tư tưởng Nho giáo có ý nghĩa về chính trị, đạo đức, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương, đạo lí. Quan niệm ấy có ý nghĩa tích cực nhưng chỉ giới hạn trong những mối quan hệ cụ thể và hạn chế ở lớp trên, không phải là tư tưởng cho lớp “dân đen con đỏ”. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa tốt đẹp trên cơ sở đó còn phát huy truyền thống đạo đức nhân hậu của dân tộc Việt, trở thành một tư tưởng nhân nghĩa toàn diện: Nhân nghĩa- yêu nước, thương dân- sợi chỉ đỏ xâu chuỗi toàn bộ tư tưởng trong văn thơ ông; đường lối chính trị đúng đắn trong toàn bộ sự nghiệp Nguyễn Trãi: lấy dân làm gốc. Với Nguyễn Trãi, cơ bản nhất của Nguyễn Trãi là “yếu tại an dân”. Muốn dân yên ổn, khi có kẻ muốn phá hoại cuộc sống nhân dân thì điều lo lắng trước hết của đội quân nhân nghĩa, của những người vì thương xót nhân dân mà dấy binh khởi nghĩa là làm thế nào để trừ khử quân bạo ngược. Đó chính là “nghĩa”. Từ đó đề ra mục đích rõ ràng của cuộc chiến: vì thương dân mà diệt trừ tàn bạo. Quan niệm của Nguyễn Trãi đã có sự phát triển tư tưởng vượt tầm thời đại, trong chiến tranh cũng như trong thời bình: luôn lấy dân làm gốc.
Tiếp đó, tác giả khẳng định tư cách tồn tại của nền độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Đó là sự thật lịch sử có tính chất hiển nhiên: “từ trước, vốn, đã chia”. Chủ quyền đất nước được phát biểu sâu sắc và đầy đủ, toàn diện trên các phương diện: lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử các thời, nhân tài hào kiệt. Với cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc chính đáng, Nguyễn Trãi đã nói về đất nước một cách chính đáng:
“Thực thi văn hiến chi bang”
Giọng điệu vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Tự hào về lãnh thổ, cương vực độc lập với Trung Hoa, về “núi sông bờ cõi”- non sông mỹ lệ, là rừng vàng biển bạc, đồng ruộng phì nhiêu mà mỗi tấc đất là tấc vàng. Để rồi sau này, trong “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”.
Ta còn tự hào về phong tục tập quán riêng, thể hiện sức mạnh dân tộc từ cái răng cái tóc, từ nếp ăn, nếp mặc đến cái chắp tay trước bàn thờ tổ tiên; tự hào về giống nòi vẻ vang, tinh hoa là người hào kiệt. Nếu “Nam quốc sơn hà” còn phải dựa vào sách trời, “Hịch tướng sĩ” dựa vào bổng lộc tướng sĩ mang tính lợi ích thì “Bình Ngô đại cáo” dựa vào những yếu tố vĩnh hằng, cao cả, được lịch sử chứng minh. Tư tưởng độc lập dân chủ vừa toàn diện, tiến bộ lại vừa sâu sắc, có khả năng thuyết phục lớn.
Tiếp theo, Nguyễn Trãi soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tế lịch sử để thấy: kẻ thù đã làm những hành động trái nhân nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa vì dân, tác giả đã nhìn suốt hành trình 20 năm ròng tham chiến, câu văn giọng nghẹn ngào, căm tức không cùng. Những câu văn đầy máu, thấm đẫm nước mắt và sự xót thương khôn cùng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”
Nguyễn Trãi đã phác lên bức tranh khổ cực của nhân dân khi giặc Minh xâm chiếm: người lên núi đào vàng, kẻ xuống biển mà ngọc, tình cảnh chia lìa, nheo nhóc, khốn cùng: vợ mất chồng, con mất cha, nặng nề những nỗi cơ cực người bị đẩy vào cảnh phu phen, ngành nghề bị tiêu hủy, … Hơn thế nữa chúng còn hủy diệt sự sống, sinh linh. Để viết lên những câu văn cô đọng như vậy, hẳn Nguyễn Trãi phải kìm nén đau thương nhiều lắm mới có thể nhìn thẳng vào sự thật, ghi thấu vào xương tủy. 16 câu thơ là những trang đầy máu và nước mắt không ngừng nghĩ về đất nước, người dân trong những giờ khắc bi thảm. Không hết, tác giả phải nén lại trong hai câu giàu tình khái quát:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!”
Và tác giả khẳng định, chúng ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa qua diễn biến cuộc khởi nghĩa. Giai đoạn đầu gắn với hình tượng người lãnh tụ Lê Lợi- linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Người chủ tướng xuất thân bình thường, xưng hô khiêm nhường, địa bàn hẻo lánh, Những người có quyết tâm, ý chí và lí tưởng chiến đấu: có những trằn trọc suy tư. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong điều kiện vô cùng khó khăn: thế lực không cân sức, thiếu nhân tài hào kiệt, binh mã, tư trang. Nhưng vượt lên với ý chí kiên định, Lê Lợi vẫn thu phục được lòng người để tạo nên một khối đoàn kết:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Và các nghĩa quân Lam Sơn đã mang vào trận chiến sức mạnh kì diệu:
“Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.”
Tác giả dùng cả đoạn văn dài để nói về cuộc kháng chiến- khúc khải hoàn ca về với những thắng lợi táo bạo, bất ngờ với cảm hứng chủ đạo là tự hào, tự tôn dân tộc:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay…
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.”
Những câu thơ sử dụng hàng loạt động từ mạnh liên tiếp tạo những rung chuyển dồn dập. Câu văn biền ngẫu đăng đối cùng thủ pháp đối lập, nhịp điệu khi nhanh khi chậm, sôi nổi tạo nên một khúc ca khải hoàn.
Cách kết thúc chiến tranh, khi giặc bị đẩy vào thế cùng lực kiệt thì những người lãnh đạo đã sáng suốt kết thúc cảnh binh đao trong hòa bình để mở đường hiếu sinh. Đó cũng là biểu hiện của sự nhân nghĩa.
Cuối cùng là lời kết luận của Nguyễn Trãi:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;”
Giọng điệu trang trọng, lời lẽ trang nghiêm, từ ngữ khẳng định được lặp lại: “từ đây, vững bền”. Nguyễn Trãi vui mừng khi tuyên bố truyền đi niềm tin tự do dân tộc được mở ra, khẳng định viễn cảnh tương lai tươi sáng của đất nước, tràn đầy tinh thần lạc quan.
Có thể nói, “Bình Ngô đại cáo” chính là bản anh hùng ca vang dội trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, đánh dấu sự phát triển về tư tưởng và nhận thức so với bản tuyên ngôn đầu của Lý Thường Kiệt. Với nền văn học trung đại Việt Nam, bài cáo chính là một áng văn chính luận xuất sắc dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa chính luận và chất văn chương, giữa tư duy logic và tư duy hình tượng.
Phân tích Bình Ngô đại cáo - mẫu 10
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỷ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô được coi là "bản tuyên ngôn độc lập thứ hai" sau Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, xứng đảng là áng "thiên cổ hùng văn" trong lịch sử văn chương nước ta.
Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đổng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.
Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phần và coi thưởng của mình.
Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà ông rất coi trọng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điếu đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.
Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đò chung chung mà đã cụ thể ra là mạnh, lệ (kè đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đổng nghĩa với giày xéo nhân dân Lo nước tức là dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.
Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lý tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vi thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.
Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.
Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lý khách quan.
Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm củng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia cổ phù quyển độc lập, tự do.
So với bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt thì Đại cáo bình Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lý Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyển của quốc gia Đại Việt là một chân lý tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi- Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn 0/7/trong lịch sử:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Của Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đổng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.
Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.
Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán giận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đổng thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hổ", để "mượn gió bẻ măng" của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhàn (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố' cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa quân xâm lược bạo tàn.
Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trải không đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hóa thâm độc mà tố cáo những -chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không dầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược.
Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con đường duy nhất là đứng lên hành động:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, cám tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản "tuyên ngôn độc lập" bởi chính những nội dung đã phân tích ở trên.
Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp. Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ tĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù lớn hả đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận... là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đổ hổi. Qua hình tượng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yêu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:
- Giải bài tập Lớp 10 Kết nối tri thức
- Giải bài tập Lớp 10 Chân trời sáng tạo
- Giải bài tập Lớp 10 Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Lớp 10 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 10 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - KNTT
- Giải sgk Toán 10 - KNTT
- Giải sgk Vật lí 10 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 10 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 10 - KNTT
- Giải sgk Địa lí 10 - KNTT
- Giải sgk Lịch sử 10 - KNTT
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - KNTT
- Giải sgk Tin học 10 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 10 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - KNTT
- Lớp 10 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 10 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - CTST
- Giải Toán 10 - CTST
- Giải sgk Vật lí 10 - CTST
- Giải sgk Hóa học 10 - CTST
- Giải sgk Sinh học 10 - CTST
- Giải sgk Địa lí 10 - CTST
- Giải sgk Lịch sử 10 - CTST
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - CTST
- Lớp 10 - Cánh diều
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều