10+ Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào (hay, ngắn gọn)



Tổng hợp Bài văn Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào (hay, ngắn gọn)

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 1

     Ca dao dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động. Ca dao đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống, một trong những khía cạnh đó chính là lời than thân ai oán, xót xa của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Một trong những bài ca dao tiêu biểu thể hiện lời than thân ấy chính là bài:

    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

     Cuộc đời của người phụ nữ xưa phải chịu vô vàn tủi cực, đắng cay bất hạnh, nó đã được phản ánh trong rất nhiều bài ca dao khác nhau như:

    Chàng ơi phụ thiếp làm chi

    Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng

     Hay:

    Thân em như lá đài bi,

    Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương

    Ngày ngày hai bữa cơm đèn

    Lấy gì mà phấn răng đen hỡi chàng.

     Bài ca dao cũng nói về thân phận, số phận bất hạnh của người phụ nữ, song ở bài ca dao này vẫn có những điểm riêng biệt. Đây là một trong số ít bài ca dao mà người phụ nữ ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của bản thân: “Tấm lụa đào”. Tấm lụa mang vẻ đẹp mềm mại, óng ả, nổi bật về màu sắc. Không chỉ vậy tấm lụa đào còn tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân đẹp đẽ, giàu sức sống, đây là giai đoạn đẹp nhất với mỗi người con gái. Và nhân vật trữ tình – người con gái cũng ý thức rất rõ về vẻ đẹp của bản thân.

     Nếu trong câu thơ thứ nhất lời thơ vui vẻ, khẳng định bản thân bao nhiêu thì câu thơ thứ hai lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu: “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. “Tấm lụa đào” vừa đẹp về hình thức, vừa giàu giá trị nhưng lại “phất phơ giữa chợ” – nơi kẻ qua người lại buôn bán trao đổi hàng hóa, vật dụng. Ở nơi đó mọi vật đều có thể mua bán bằng tiền. Bởi vậy “tấm lụa đạo” đã trở thành một món hàng hóa, có thể mua bán và trở thành vật sở hữu của bất cứ đối tượng nào. Tấm lụa không được lựa chọn, không được tự quyết định số phận của mình. Hình ảnh ẩn dụ kết hợp với câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, mong manh của người phụ nữ xưa. Đó cũng là lời than, ai oán của biết bao người phụ nữ:

    Thân em như giếng giữa đàng

    Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân.

     Nghệ thuật của bài cũng là một nét đặc sắc không thể không kể đến. Trước hết sử dụng motip quen thuộc “thân em”. Motip này thường kết hợp với các sự vật, hiện tượng giản dị, gần gũi với con người: “tấm lụa” “miếng cau” “hạt mưa sa” “củ ấu gai”,… kết hợp với biện pháp so sánh, cho thấy rõ nét vẻ đẹp, cũng như số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngôn ngữ bài ca dao có sự chọn lọc kĩ lưỡng, giàu giá trị biểu cảm nhưng lại vô cùng giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Bài ca dao ngắn, chỉ có hai câu, sử dụng thể thơ lục bát với nhịp chẵn 2/2/2 dịu dàng, êm ái với cách gieo vần chân đã diễn tả một cách chính xác tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó, kết hợp hài hòa với nhau tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

     Bằng thứ ngôn ngữ giản dị, giàu giá trị biểu cảm bài ca dao đã cho thấy vẻ đẹp và thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều bất công, không được quyền quyết định cuộc đời, lựa chọn hạnh phúc cho bản thân. Bài ca dao giúp ta thấu hiểu sâu sắc hơn nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, và trân trọng cuộc sống bình đẳng hiện nay.

Dàn ý Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào

I. Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài

1. Mô típ “thân em”.

- Là mô típ quen thuộc được sử dụng để nói về tiếng khóc than của người phụ nữ không được làm chủ số phận của cuộc đời mình

- “Thân em” thường được so sánh với hai đối tượng:

+ Những vật nhỏ nhoi, tầm thường không đáng được quan tâm: "Thân em như giếng giữa đàng", "thân em như quả cau khô", "thân em như trái bần trôi",...

+ Những thứ tốt đẹp nhưng không được coi trọng: "Thân em như tấm lụa đào", "thân em như cánh hoa hồng", "thân em như đóa hoa rơi",...

=> Cách so sánh gợi lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ.

=> Hai tiếng “thân em” thốt lên gợi cảm giác mềm mỏng, yếu đuối, rụt rè, khiêm nhường. Người phụ nữ tự than cho số phận mình

2. Người phụ nữ tự ý thức về vẻ đẹp của mình

- Hình ảnh so sánh “tấm lụa đào”

+ Nghĩa đen: "Tấm lụa đào" là một mảnh vải đẹp, mềm mại, có giá trị. Tấm lụa đào là món đồ trang sức trang trí cho con người hoặc đồ vật.

+ Nghĩa bóng: "Tấm lụa đào" gợi liên tưởng đến vẻ đẹp của người phụ nữ, mềm mại nuột nà. Trong cuộc sống, người phụ nữ cũng âm thầm, lặng lẽ chịu đựng nhiều bất công.

=> Đây là hình ảnh so sánh rất đẹp, rất thanh cao.

- So sánh với bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương để thấy sự đồng cảm của đời sau “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

=> Người phụ nữ tự ý thức được vẻ đẹp hình thức và nội tâm của mình

- Từ láy “phất phơ”:

+ Miêu tả trạng thái của tấm lụa đào khi đứng trong gió

+ Nói đến sự vô định, nổi trôi, không tự làm chủ được số phận của người phụ nữ.

- Hình ảnh “chợ”

+ Nơi để trao đổi, giao lưu buôn bán, rất phức tạp.

+ Sự hiện diện của một xã hội phức tạp với đủ các loại người.

- Câu hỏi tu từ “biết vào tay ai”: Thể hiện sự chua xót, bất lực, vô vọng của người phụ nữ trước số phận.

=> Người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh không được làm chủ cuộc đời mình, ngay cả giá trị, phẩm hạnh cũng phụ thuộc vào người khác.

3. Nghệ thuật

- Sử dụng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ gợi liên tưởng độc đáo.

- Sử dụng các từ láy, câu hỏi tu từ

- Giọng điệu xót thương, ngợi ca.

4. Ý nghĩa của bài ca dao

- Thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ

- Nói nên niềm cảm thông, chia sẻ với số phận bấp bênh của người phụ nữ.

- Tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của người phụ nữ

III. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 2

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lời than thân buồn tủi:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng; "Thân em", từ "thân" gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuối. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng "thân em". Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận "bảy nổi ba chìm" của "thân em vừa trắng lại vừa tròn". Nguyễn Du thương xót thốt lên "Đau đớn thay phận đàn bà" và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú "Lặn lội thân cò khi quãng vắng". Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tưởng như dải "lụa đào". Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ "phất phơ" không có hướng cố định cũng như "hoa trôi man mác biết là về đâu". Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ "vào tay ai". Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra "biết vào tay ai" thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đời người con gái.

Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lời từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!

Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giới nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình, lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như dải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:

Ví đây đôi phận làm trai được.

Những ước muốn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 3

Trong kho tàng ca dao truyền thống của ta, bộ phận nói về chủ đề than thân của người phụ nữ chiếm một tỉ lệ rất lớn và trong đó, đáng chú ý nhất là loại bài ngắn (hai câu lục bát hoặc bốn câu). Đó là một trong những mảng ca dao hay nhất, giàu ý nghĩa xã hội và cũng giàu chất ca dao nhất. Chúng thường được mớ đầu bằng những mô típ truyền thống quen thuộc: “Em như…” hoặc “Thân em…”. Đọc qua hoặc nghe qua thì thấy chúng có dáng dấp bề ngoài hao hao giống nhau, nhưng đi sâu vào từng bài cụ thể thì sẽ thấy mỗi câu, mỗi bài đều có những nét riêng không lặp lại về nội dung cũng như về nghệ thuật:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”

Đây là niềm băn khoăn của cô con gái mới lớn, bước vào tuổi lấy chồng. Hình ảnh tấm lụa đào lộng lẫy tượng trưng cho nhan sắc và tuổi xuân phơi phới của người con gái đến tuổi dậy thì, chứng tỏ người con gái ý thức được rất rõ giá trị của mình. Nhưng đây không phải là tấm lụa đào cất trong rương, vắt trong nhà mà đem bán giữa chợ: phất phơ giữa chợ. Cô gái thấy mình đến tuổi gả bán. Trong điều kiện chưa có hôn nhân tự do, mà do mai mối đưa đường, người con gái cảm thấy như là đang ở giữa chợ. “Biết vào tay ai” là một băn khoăn, không phải sợ ế, sợ rẻ, mà chỉ sợ người chủ tương lai của đời mình sẽ thế nào.

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 4

Việt Nam ngày trước với chế độ phong kiến cổ hủ, “trọng nam khinh nữ” trở thành định kiến khó có thể lay chuyển nổi. Chính vì thế mà số phận người phụ nữ trong xã hội ấy rất đau khổ và bi thương. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc trong đó có bài cao dao với bao lời than thân tủi nhục:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Ca dao xưa là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tập thể rất phổ biến, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội phong kiến với nhiều lễ giáo. Chính những phong tục cổ hủ và lễ giáo phong kiến ấy đã đè ép biết bao nhiều số phận người phụ nữ, khiến họ bất hạnh, bị dồn vào đường cùng., Bài ca dao trên mở đầu với mô tuýp “thân em” quen thuộc. Nghe hai từ “thân em” thật đỗi dịu dàng khiến ta liên tưởng đến người con gái nhỏ bé, yếu ớt. “Em” chứ không phải “tôi” , “cô”, xưng “em” ta cảm nhận được sự nhún nhường yếu đuối của người phụ nữ. Lời than thân nghe mà chan chứa nước mắt nhẹ bẫng trong không gian mà nặng trĩu trong lòng người. Với biện pháp so sánh “thân em” với “tấm lụa đào”, câu ca dao đã ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ. Tấm lụa đào là một mảnh vải lụa mỏng manh, mềm mại nhẹ nhàng dùng để may những chiếc áo, như chính người phụ nữ thời xưa . Họ mang vẻ đẹp tâm hồn cao quý nhưng chỉ là cái bóng lặng lẽ, thậm chí là vô hình, cứ vậy mà sống với đầy rẫy những bất công bởi nền tảng phong kiến cố hữu. Tấm lụa đào tuy đẹp đẽ là thế nhưng cuối cùng chúng chỉ là những thứ được bày bán ở chợ đông người:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Không gian ở đây là nơi chợ đông đúc, xô bồ với đủ thể loại người kẻ mua, người bán với các loại mặt hàng khác nhau đa dạng phong phú thì đâu đó “tấm lụa đào” đẹp đẽ mỏng manh đang bay “phất phới”. Một từ láy diễn tả hết thảy hoàn cảnh người phụ nữ đang phải đối mặt. Họ trở thành đồ trang trí được bày bán giữa chợ, làm thứ để người ta tùy ý nâng lên đặt xuống, hay tuy ý bay trong gió sương. Liệu có ai giữa nơi đông kịt ấy nhận ra giá trị của tấm lụa đào, hay nó cứ mãi phất phơ trước gió, mất định hướng mặc cho đẩy đưa giữa giông gió “hoa trôi mang mác biết là về đâu” .Những người phụ nữ yếu mềm ấy làm sao đủ sức, chủ động đối mặt với khó khăn,cũng không định hướng nổi cho cuộc đời mình rồi sẽ ra sao. Câu hỏi tu từ vang lên không chỉ để hỏi mà đó là tiếng kêu , tiếng than da diết đầy bi ai. Chẳng thế đoán định nổi tương lai họ sẽ gặp một càng Kim Trọng thư sinh phong nhã hay gặp kẻ như Mã Giám Sinh lừa lọc gian xảo, một Trương Sinh ích kỉ hẹp hòi. Cứ hoài nghi tương lai khiến người phụ nữ ngày ngày sống trong hy vọng rồi lại lo lắng canh cánh một nỗi sợ trong lòng. Họ hoàn toàn thụ động, trở thành những “kẻ yếu” trong xã hội cũ như Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh vậy. Không còn khả năng chống lại hay phản kháng, phó mặc số phận cho đời rồi chìm mình vào những nỗi khổ đau bất hạnh không lối thoát. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.

Như vậy, bài ca dao là một thời than, một câu hỏi dài vang lên những bi thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Qua đó ta nhận ra giá trị ,vẻ đẹp tâm hồn của họ, đồng cảm và xót thương cho “thân em” đồng thơi ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 5

Trong kho tàng ca dao của Việt Nam có rất nhiều bài ca dao phản ánh một cách chân thực đời sống tâm hồn của con người. Mỗi một bài ca dao đề cập đến một nội dung riêng của đời sống mà trong đó nội dung than thân khiến người đọc cảm thấy xúc động và xót xa hơn cả. Người phụ nữ sống trong xã hội cũ đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi và họ chỉ có một cách duy nhất để thương cho chính mình đó là gửi tâm tư vào trong những bài ca dao như:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Có rất nhiều bài ca dao bắt đầu bằng hai chữ thân em như vậy chẳng hạn “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như giếng nước giữa đàng”, “Thân em như lá đài bi”,… Tất cả đều nằm trong nhóm ca dao than thân và ta thấy ở mỗi một bài ca dao người phụ nữ lại bị đẩy vào những hoàn cảnh khác nhau. Họ chủ yếu bị phụ thuộc, sống nhưng không có tiếng nói, không được coi trọng. Mặc dù cũng bắt đầu bằng hai chữ thân em nhưng bài ca dao Thân em như tấm lụa đào vẫn mang những nét riêng biệt. Ở đây người phụ nữ đã ví thân mình như tấm lụa đào. Rõ ràng sự so sánh này so với những sự so sánh khác như tôi lấy ví dụ ở trên có sự khác biệt hoàn toàn. Khi ví thân mình như tấm lụa đào, người phụ nữ đã nhận thức được vẻ đẹp của bản thân mình. Đó là vẻ đẹp mềm mại, nổi bật và đầy sức sống. Có thể nói người phụ nữ trong bài ca dao đang ở thời kì thanh xuân đầy rực rỡ. Đây cũng là giai đoạn đẹp nhất của người phụ nữ. Đáng lẽ ở giai đoạn này người phụ nữ phải được hưởng hạnh phúc nhiều nhất nhưng câu ca dao sau lại dập tắt mọi hi vọng.

Tấm lụa đào vừa đẹp đẽ lại vừa giá trị nhưng nó không được nằm ở vị trí trang trọng mà lại phất phơ giữa chợ. Chợ là nơi đông đúc người qua kẻ lại, là nơi mà mọi thứ đều có thể mua được bằng tiền. Như vậy tấm lụa đào cũng chỉ như một món hàng hóa mà bất cứ ai cũng đều có thể sở hữu. Tấm lụa đào không có quyền tự quyết, không biết rồi đây mình sẽ rơi vào tay ai. Rơi vào tay người biết trân trọng thì cuộc sống bớt tủi hờn còn rơi vào tay người không biết trân trọng thì coi như cuộc sống không còn những niềm vui.

Bài ca dao đã bộc lộ rõ sự lo lắng của người phụ nữ về số phận của mình. Dù có đẹp đến mấy, có giá trị đến mấy thì cũng còn phụ thuộc vào tay người sở hữu. Cách ngắt nhịp 2/2/2 khiến cho bài ca dao nghe nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng thấm thía và bộc lộ được tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Thông qua bài ca dao chúng ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ đã nhận thức được giá trị của bản thân mình, chỉ tiếc là xã hội chưa công nhận họ nên họ vẫn chưa có cái quyền mưu cầu hạnh phúc, chưa có quyền tự quyết. Qua đây chúng ta hiểu và càng trân trọng hơn những người phụ nữ ấy.

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 6

Chế độ phong kiến ​​hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dần dồn người phụ nữ vào ngõ cụt, họ phải sống dưới áp lực, bị đánh đập, khinh miệt nhưng không thể chống lại được chúng bởi họ bị tước đi cái quyền này. Khi người ta đề cao vai trò của đàn ông thì phụ nữ ngày càng trở nên rẻ rúng bấy nhiêu phần. Đã có biết bao người phụ nữ đau khổ, ngậm đắng nuốt cay, ngậm ngùi cho qua đời, đã từng có nàng Kiều lưu lạc, đã có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương tuy tài sắc vẹn toàn, cuộc đời cũng lắm truân chuyên. Rồi bao nhiêu đắng cay tủi nhục, người đàn bà ấy đã có những câu hát, câu hát thật sâu lắng, bi ai cay đắng.

"Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."

Từ “em” chỉ những người phụ nữ xưa, họ như “tấm lụa đào”, ở đây có hai nghĩa. Đầu tiên là để thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa, đó là lụa, cũng là lụa đào, đỏ hồng như đôi má đào của người thiếu nữ. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển, cao sang mà còn là vẻ đẹp của phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn người phụ nữ, lòng thủy chung, đức hi sinh cao cả, dũng cảm đảm đang, tam tòng tứ đức. Bốn đức tính của thời phong kiến ​​này, người phụ nữ nào cũng có không có đủ. Ở một khía cạnh khác, tấm “lụa đào” này tuy đẹp nhưng lại vô cùng mong manh, yếu ớt và dễ bị tổn thương, dễ khiến người ta liên tưởng đến số phận dài đằng đẵng, nhạt nhòa của người phụ nữ. Đó là thân phận mà tiếng nói không có giá trị, địa vị không có giá trị, bị người đời coi thường, có khi cho là không khác gì một vật đẹp mà nhẹ, bỏ ra ít tiền là đã có được.

Câu nói “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” càng đau xót, đáng thương cho thân phận người phụ nữ. Sao mềm mại, đẹp đẽ, bay bổng như vậy tấm lụa là mà họ lại không quyết định được số phận của mình. “Phất phơ giữa chợ”, người phụ nữ so sánh mình chẳng khác gì món hàng đặt giữa chợ để người ta lựa chọn, tung tăng lên xuống, mặc cả, tiếc hùi hụi nếu không “bán” được họ sẽ phải chịu số phận bị bỏ đi. Bốn chữ “biết vào tay ai” càng làm cho người ta hiểu số chìm nổi của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không thể lựa chọn hạnh phúc cho mình. Ngay cả người tài hoa và dũng cảm như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng không thoát khỏi kiếp sống xô bồ. Bà bất hạnh lấy hai đời chồng để rồi cả hai lần bà đều phải chịu kiếp oan, ngày đêm sống trong cay đắng thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên cay đắng “ chém cha cái kiếp chồng chung ”. Không chỉ Hồ Xuân Hương mà có lẽ hàng nghìn người phụ nữ thời ấy cũng cùng chung một nỗi đau, niềm tiếc nuối. Thời phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, không có quyền phản đối, lựa chọn, biết đâu sẽ gặp được người chung thủy, biết chí làm ăn, biết yêu thương vợ con, hay gặp họ bần hàn, trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan thuở ấy chỉ trông chờ vào may rủi, như hạt mưa sa, trời thương thì về căn gác tía, không thương thì lạc vào ruộng cày vô tình chẳng ai hay.

Cả bài thơ nhìn có vẻ trang nhã nhưng nếu đọc kỹ chỉ thấy phảng phất lời than thở tinh tế, kín đáo mà người xưa gửi gắm. Thân phận của một người phụ nữ là lụa là mịn màng và quý giá, nhưng nếu không ai hiểu được vẻ đẹp tiềm ẩn, nó sẽ trở nên vô nghĩa và vô giá trị. Đó là lời than thở, than vãn nhẹ nhàng nhưng rất xót xa, tiêu biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu ớt, tế nhị của người phụ nữ xưa trước những bất công mà họ phải gánh chịu. Là phụ nữ đã chịu thiệt thòi, chịu nhiều đắng cay tủi nhục thì làm sao mà không chạnh lòng cho được.

Với rất nhiều ý nghĩa nội dung ẩn sau hai câu thơ ngắn gọn, hàm  súc, cách phân loại khác nhau, ca dao dân ca thường được gieo vần, truyền miệng từ đời này qua đời khác nhằm mục đích thể hiện quan điểm, giáo dục của ông cha và giáo dục thể hệ sau. Câu ca dao thương thân nổi tiếng này được coi là tượng đài tiêu biểu được nhắc đến nhiều khi người ta tiếc thương cho thân phận người phụ nữ thời phong kiến lúc bấy giờ.

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 7

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến ​​chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi. Đã có rất nhiều ví dụ về sự bất hạnh như vậy. Một nàng Kiều vất vả, ngậm đắng nuốt cay và âm thầm khóc thương cho cuộc đời. Một Vũ Nương chịu nỗi oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và bao nhiêu kiếp đời phụ nữ trong xã hội phong kiến chưa được biết tới. Nhiều đến mức nó đã trở thành thông lệ khiến cho phụ nữ bị lạm dụng và bị gán cái mác yếu đuối, là đối tượng dễ dàng bị chà đạp trong xã hội. Còn những người phụ nữ thì không còn sức chiến đấu hoặc sức phản kháng đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời tố cáo biến thành lời than thở xót xa:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Lời phàn nàn này đẫm nước mắt và mỏng manh như làn khói trong không gian, như thân phận của một người phụ nữ. Dân ca là một hình thức sinh hoạt dân gian rất phổ biến, trong đó chứa đựng rất nhiều cảm xúc và cũng là lời than thở tự trách mình. Các tác giả dân gian có lẽ thấu hiểu nỗi đau này, đồng cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu bài thơ là một lời xưng hô nhỏ ngọt ngào; “Thân em”, từ “thân em” gợi cảm giác bé nhỏ, yếu ớt. Cô gái giới thiệu bản thân cũng ngại ngùng và khiêm tốn nói hai từ "thân em". Thân phận người phụ nữ đã được đề cập trong văn học viết. Hồ Xuân Hương thương cảm cho số phận “bảy nổi ba chìm” của “thân em vừa trắng vừa tròn”. Nguyễn Du đã thốt lên một cách tàn nhẫn “ Đau đớn thay phận đàn bà ” và Tú Xương cũng đã từng thổn thức khi viết về bà Tú “ Lặn lội thân cò khi quãng vắng ”. Còn ca dao kể về cuộc đời người con gái qua hình ảnh như dải “lụa đào”. Biện pháp so sánh ở đây ngọt ngào, tao nhã thấm vào lòng người đọc, người nghe. Lụa đào có vẻ ngoài đẹp, mềm mại như tâm hồn người phụ nữ và phẩm chất, là chất liệu mềm mại dùng để may vá, trang trí người hoặc khung tranh. Và có lẽ người phụ nữ của cuộc đời xưa cũng vậy, họ là một viên ngọc quý, một chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Tấm lụa đào là một hình ảnh so sánh thật tao nhã, thật mềm mại nhưng lại nặng trĩu bao bọc. Vì vậy, câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ toát ra từ đó: "Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai".

Dải lụa được đào giữa chợ, giữa sự tấp nập kẻ bán người mua. Ai có mắt xanh mới biết giá trị của lụa đào? Từ “ phất phơ ” không có nghĩa cố định cũng như “hoa trôi man mác biết là về đâu”. Bị số phận đẩy đến bước đường cùng, cô gái không đủ mạnh mẽ, không thể chủ động xác định hướng đi cho mình để rồi ngày đêm trăn trở không biết yêu cầu của mình sẽ “vào tay ai”. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỷ hay một Kim Trọng hào hoa, nho nhã? Họ ý thức khá rõ về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm này không biết mình có được người bạn tâm giao để lựa chọn hay không? Trong suốt cuộc đời, người phụ nữ xưa bị đẩy vào thế bị động, chỉ quanh quẩn trong nhà thờ chồng thờ cha, theo con. Dải lụa nhẹ nhàng tung bay trong gió, phó mặc để gió mang đến bàn tay bất kỳ. Câu hỏi “vào tay ai” thật tế nhị, tài tình gợi cho người đọc một cảm giác ngậm ngùi. Câu hỏi này có lẽ vẫn còn mãi trong cuộc sống của phụ nữ thời phong kiến.

Toàn bộ câu thơ là một lời than thở. Câu ca dao sinh ra từ số phận hẩm hiu của một người phụ nữ thời phong kiến. Không ai trong số những tác giả ẩn danh sáng tác đoạn thơ trên có thể thoải mái khi nghĩ đến đứa con tinh thần của mình. Câu tục ngữ là sản phẩm của quá trình đông lại của những giọt nước mắt trong tim. Từng lời của câu thơ toát lên sự ngậm ngùi. Nước mắt chảy dài. Ca dao là tiếng nói của lòng người, là lời than thở của nhiều thân phận!

Ca dao sử dụng phép so sánh rất linh hoạt và rất gần gũi với cuộc sống đời thường đã tạo nên một hình ảnh gợi nhiều cảm xúc. Nó như len lỏi dần vào từng ngóc ngách của dải lụa đào phất phơ. Tất cả tạo nên những dòng cảm xúc buồn vui chảy từ người này sang người khác, từ kiếp này sang kiếp khác, trong một không gian muôn thuở của âm vang. Phụ nữ thời phong kiến ​​phải chịu nhiều đau khổ và chấp nhận làm vinh quang cho những người xung quanh. Số phận của nàng như dải lụa tung bay trong gió, không biết sẽ đi về đâu. Nhan đề bài thơ là một lời than thở yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng đã ao ước: "Ví đây đổi phận làm trai được". Những mong muốn này sẽ kéo dài bao lâu, hay chúng ta phải trở về với tiếng than khóc bất lực?

Phân tích bài ca dao Thân em như tấm lụa đào - mẫu 8

Chế độ phong kiến hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã từng bước dồn ép người phụ nữ vào con đường không lối thoát, họ phải sống trong sự áp đặt, bị vùi dập bị coi thường, nhưng không thể phản kháng bởi họ không có cái quyền đó. Trong khi người ta đề cao vai trò của người đàn ông bao nhiêu thì người phụ nữ lại càng trở nên rẻ rúng bấy nhiêu. Đã có biết bao người phụ nữ phải đau khổ, ngậm đắng nuốt cay, không khỏi than vãn cho cuộc đời mình, xưa có nàng Kiều bạc mệnh, có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, dù tài sắc vẹn toàn nhưng đời cũng lắm truân chuyên. Để rồi nhiều cay đắng tủi nhục quá, người phụ nữ đã có những câu hát, câu ca dao than thân ví von thật sâu sắc, cũng thật bi ai.

"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."

Từ "em" là chỉ người phụ nữ thời xưa, họ tự ví mình như "tấm lụa đào", ở đây có đến tận hai nghĩa. Thứ nhất là phiếm chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam khi xưa, đã là lụa, lại còn là lụa đào, một màu đỏ hồng phơn phớt tựa như đôi má đào của người con gái còn son trẻ. Vẻ đẹp ấy không chỉ là sự mềm mại, uyển chuyển, kinh diễm mà còn là những nét đẹp từ sâu trong tâm hồn người phụ nữ, là lòng thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả, công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức thời phong kiến ấy phụ nữ nào mà không có đủ. Một nghĩa khác, "tấm lụa đào" ấy tuy đẹp nhưng lại vô cùng mỏng manh, yếu đuối, dễ bị tổn thương, khiến ta dễ liên tưởng đến số phận long đong, nhẹ tựa lông hồng của người phụ nữ. Đó là một thân phận mà tiếng nói không có giá trị, thân phận không có giá trị, bị người ta xem nhẹ, nhiều lúc những tưởng chẳng khác gì một món đồ đẹp mà nhẹ bẫng, bỏ chút tiền đã có được. Thân phận "tấm lụa đào" là như vậy.

Câu "Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai" càng nói lên nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận của người phụ nữ. Tại sao nhẹ nhàng đẹp đẽ, bay bổng đến thế mà lại chẳng thể quyết định số phận của mình. "Phất phơ giữa chợ", người phụ nữ tự ví mình không khác gì món hàng đem đặt giữa chợ cho người đời chọn lựa, nâng lên đặt xuống, kì kèo mặc cả, chẳng may nếu không "bán" được thì lại chịu số phận bị bỏ đi hay sao. Mấy chữ "biết vào tay ai", càng làm người ta hiểu được cái số lênh đênh của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả người vốn tài sắc và bản lĩnh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng chẳng thoát khỏi kiếp đong đưa. Bà bất hạnh có hai đời chồng, rồi cả hai lần đều chịu kiếp làm lẽ, đêm ngày sống trong cay đắng, thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên rằng "chém cha cái kiếp chồng chung", thì hẳn bà đã phải căm giận đến mức độ nào. Không chỉ riêng mình Hồ Xuân Hương mà có lẽ cả vạn kiếp phụ nữ thời ấy đều có chung một nỗi đớn đau, hờn tủi như vậy. Khi mà chế độ phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó, không có quyền phản kháng lựa chọn, biết là gặp được người chung tình, biết làm ăn, yêu thương vợ con hay gặp phải kẻ sở khanh, ăn chơi trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan khi ấy chỉ trông vào mỗi sự may mắn của số phận, tựa hạt mưa sa, trời thương thì vào lầu son gác tía, trời không thương thì chịu lạc ra ruộng cày chẳng biết.

Toàn bộ câu ca dao nghe thì phong tình, phong nhã đấy nhưng đọc thật kỹ, để suy tư nghiền ngẫm thì mới thấy được lời than oán thật tinh tế mà người xưa gửi gắm. Thân phận phụ nữ là tấm lụa mượt mà, quý giá nhưng lại chẳng ai chịu hiểu cho vẻ đẹp tiềm ẩn ấy. Đó là lời than, lời oán trách thật nhẹ nhàng, nhưng rất đỗi ngậm ngùi xót xa, đại biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu ớt và tế nhị của người phụ nữ khi xưa đối với những bất công ngang trái mà họ phải gánh chịu. Làm thân con gái đã thiệt thòi, lại phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục thì sao có thể không xót xa, không hờn giận cho cam.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 10 khác:

Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:


ca-dao-than-than-yeu-thuong-tinh-nghia.jsp


Giải bài tập lớp 10 sách mới các môn học