20+ Phân tích bài thơ Thu Hứng (hay, ngắn gọn)
Tổng hợp bài văn Phân tích bài thơ Thu Hứng của Đỗ Phủ hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 1
- Dàn ý Phân tích bài thơ Thu Hứng
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 2
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 3
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 4
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 5
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 6
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 7
- Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 8
20+ Phân tích bài thơ Thu Hứng (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 1
Đỗ Phủ là nhà thơ lỗi lạc có nhiều đóng góp lớn cho thi ca Trung Quốc, ông là một thi sĩ tiêu biểu, với số lượng tác phẩm để lại không hề nhỏ. Tấm lòng lương thiện, nhạy cảm với cuộc sống với đời, những bài thơ ông viết ra, đều mang tư tưởng yêu nước, hay còn gọi là " yêu nước thương đời" đồng thời phản ánh chân thực thời đại mà ông đang sống. Với tâm hồn nghệ sĩ, những phút xao lòng với những đổi thay của đất trời, của thời tiết cũng khiến cho những câu từ trong chính tâm hồn in đậm lên trang giấy. Thu Hứng hay còn gọi là" Cảm xúc mùa thu" là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu cho hồn thơ của Đỗ Phủ.
Đề tài về thiên nhiên đặc biệt là sự thay đổi của không gian của đất trời khiến cho các thi sĩ không ít khi nao lòng. Mùa thu là mùa mà khiến cho tâm hồn con người ta trở nên lãng mạn, thả hồn theo gió, ta cũng thấy một thứ gì đó vừa man mác lại vừa thấm đượm mùi vị đất trời chênh vênh. Cảm xúc mùa thu là bức tranh màu thu hắt hiu , mang nặng tâm trạng tu sầu của tác giả trong lúc đất nước lâm vào cảnh rối ren, nỗi thương nhớ quê hương dâng lên nghẹn ngào, và buồn thương cho thân phận mình nơi đất khách quê người..
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Sau khi được phiên âm, bài thơ "Cảm xúc mùa thu" lại dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc. Những cảnh vật hiện ra trong bài thơ nối tiếp nhau, nhưng bị bao phủ bởi một nỗi buồn khôn tả. Cùng với những vần thơ mềm mại mà thấm đượm, nguyễn công trứ đã mang " cảm hứng mùa thu" lại gần hơn, đặc biệt thể hiện được cả những điều mà Đỗ Phủ đã gửi gắm
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Có thể thấy rõ được, trong bài thơ, bốn câu đầu là "câu đề" với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang.
Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã phác thảo ra được cái thần chiều thu ở Quý Châu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Có thể thấy được hoặc cũng có thể cảm nhận được, tác giả đang đứng ở vị trí cao để quan sát được toàn cảnh ở nơi đây.Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của tác giả, nhìn về phía xa xăm. Hiện ra đầu tiên là hình ảnh rừng phong với sương móc còn phủ trên chúng, tạo ra cảnh tượng buồn,đặc biệt rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu đến. Những dấu hiệu như rừng phong hay những hạt sương , dưới con mắt của tác giả, cũng phần nào cho người đọc thấy được mùa thu đang đến gần. Hai câu thơ mở đầu tuy là đều rừng núi nhưng lại chung một điểm , đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm vào tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi đặt bút ngâm thơ. Với tâm trạng như vậy, Đỗ Phủ biết những vần thơ tiếp theo:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Nếu như ở hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát từ trên cao xuống thì 2 câu tiếp theo lại miêu tả cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Nó như muốn lột cả cảnh rừng núi Vu Sơn Vu Giáp vừa tráng lệ nhưng cũng bí hiểm âm u. Bốn câu thơ, nhưng ở mỗi câu là một nét chấm phá, là sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ tới quê hương tới nao lòng.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Với nghệ thuật đối được sử dụng ở câu năm câu sáu, lại khiến tâm trạng của tác giả dâng lên:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Bốn câu cuối tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha phương. Hình ảnh hoa cúc là hình ảnh đặc trưng cho mùa thu, cũng là hình ảnh mà tác giả phải rơi lệ khi nhìn thấy, nhớ tới mùa thu ở quê hương mình. Những hình ảnh được sử dụng như con thuyền( cô chu) là một con thuyền đơn độc, nhưng là con thuyền hy vọng mang tác giả về quê hương của mình. Ở cuối bỗng đột ngột âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong hoàng hôn. Âm thanh duy nhất ấy đã đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng nó chẳng thể đủ để xua đi những áng mây buồn đang bủa vây tâm hồn thi sĩ với những nét chấm phá mạnh mẽ trong tác phẩm cùng với lấy trọng tâm chính là tả cảnh và bộc lộ cảm xúc,những vần thơ trở nên có hồn và làm rung lên sợ dây tình cảm của độc giả.
Qua bài thơ "Cảm xúc mùa thu", ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, cái tư tưởng " yêu nước thương đời " lại càng thể hiện rõ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ.. " cảm xúc mùa thu" đã đòng góp một phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng của ông, cũng như là một bài thơ tiêu biểu về mùa thu của thi ca Trung Quốc.
Dàn ý Phân tích bài thơ Thu Hứng của Đỗ Phủ
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
II. Thân bài
1. Bốn câu thơ đầu: Cảnh thu
a. Câu 1 và 2
- Hình ảnh: ngọc lộ, phong thụ lâm - Là những hình ảnh quen thuộc của mùa thu Trung Quốc:
+ “Ngọc lộ: Miêu tả hạt sương móc trắng xóa, dầy đặc làm tiêu điều, hoang vu cả một rừng phong. Bản dịch thơ dịch thanh thoát nhưng chưa truyền tải đầy đủ nội dung, ý nghĩa thần thái của nguyên tác.
+ “Phong thụ lâm”: hình ảnh thường được dùng để tả cảnh sắc mùa thu và nỗi sầu li biệt
- “Núi vu, kẽm vu”: Là hai địa danh cụ thể ở Trung Quốc, vào mùa thu khí trời âm u, mù mịt. Bản dịch thơ là “ngàn non”: Đánh mất hai địa danh cụ thể lại không diễn tả được hết không khí của mùa thu.
- “Khí tiêu sâm”: Hơi thu hiu hắt, ảm đạm
=> Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao vừa có chiều rộng và chiều sâu, không gian lạnh lẽo xơ xác, tiêu điều, ảm đạm
=>Diễn tả cảm xúc buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả.
b. Câu 3 và 4
- Điểm nhìn từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được nới theo ba chiều rộng, cao và xa:
+ Tầng xa: là ở giữa dòng sông thăm thẳm là “sóng vọt lên tận lưng trời”
+ Tầng cao: Là miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đấy.
+ Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông đều cho ta hình dung về không gian rộng lớn.
- Hình ảnh đối lập, phóng đại: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp)
=> Sự vận động trái chiều của những hình ảnh không gian kì vĩ, tráng lệ.
=> Tâm trạng con người ngột ngạt, bí bách
=> Bốn câu thơ vẽ lên bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, rợn ngợp chao đảo. Đó phải chăng cũng là bức tranh của xã hội Trung Quốc đương thời loạn lạc bất an, chao đảo
=> Tâm trạng buồn, cô đơn, chênh vênh lo lắng của tác giả trước thời cuộc.
2. Bốn câu thơ sau: Tình thu
a. Câu 3 và 4
- Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ:
+ Khóm cúc nở hoa – tuôn dòng lệ: Có hai cách hiểu khóm cúc nở ra làm rơi giọt nước mắt, khóm cúc nở ra giọt nước mắt.
=> Dù hiểu theo cách nào cùng thấy được tâm sự buồn của tác giả.
+ Cô chu – con thuyền cô độc
=> Hình ảnh gợi sự trôi nổi, lưu lạc của con người. Là phương tiện để nhà thơ gửi gắm khát vọng về quê.
- Từ ngữ:
+ “Lưỡng khai”: Nỗi buồn lưu cữu trải dài từ quá khứ đến hiện tại
+ “ Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình nhà của tác giả.
+ “Cố viên tâm”: Tấm lòng hướng về quê cũ. Thân phận của kẻ tha hương, li hương luôn khiến lòng nhà thơ thắt lại vì nỗi nhớ quê (Lạc Dương), nhớ nước (Trường An – kinh đô nhà Đường).
- Sự đồng nhất giữa các sự vật, hiện tượng:
+ Tình – cảnh: Nhìn cúc nở hoa mà lòng buồn tuôn giọt lệ
+ Quá khứ hiện tại: Hoa cúc nở hai lần năm ngoái – năm nay mà không thay đổi
+ Sự vật – con người: Sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người.
=> Hai câu thơ đặc tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết, dồn nén vì nỗi nhớ quê không thể giải tỏa của nhà thơ.
b. Câu 7 và 8
- Hình ảnh
+ Mọi người nhộn nhịp may áo rét
+ Giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông tới
=> Không khí chuẩn bị cho mùa đông, gấp gáp, thúc giục.
- Âm thanh: Tiếng chày đập vải
=> Âm thanh báo hiệu mùa đông sắp đến, đồng thời diễn tả sự thổn thức, ngổn ngang, mong chờ ngày về quê của tác giả.
=> Bốn câu thơ khắc sâu tâm trạng buồn, cô đơn, lẻ loi, trầm lắng, u sầu vì nỗi mong nhớ trở về quê hương.
III. Kết bài
- Khái quá lại vấn đề
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 2
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của văn học Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ cảm xúc, thái độ và tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của nhân dân. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông không thể không kể tới đó là Thu hứng.
Đỗ Phủ quê ở Hà Nam, Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho giáo và thơ ca lâu đời. Suốt cuộc đời ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Nhưng ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông vẫn luôn rực cháy. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời đại ông sống. Ông được công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới.
Đỉnh cao của sự nghiệp văn chương Đỗ Phủ là thời kỳ Bắc Tống, những tác phẩm của ông được đánh giá một cách toàn diện và tên tuổi của nhà thơ gắn liền với sự phát triển của Tân Khổng Giáo.
Thu hứng là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766 khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc nơi đất khách quê người. Chính hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc để sáng tác Thu hứng.
Ta có thể thấy, mùa thu trong văn học là mùa được khá nhiều thi nhân lựa chọn gửi gắm những nỗi niềm tình cảm của mình. Mùa thu khiến cho tâm hồn con người ta trở nên lãng mạn, thả hồn theo gió ta cũng cảm thấy một nỗi buồn mênh mang. Cảm xúc mùa thu là bức tranh mùa thu hắt hiu, mang nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình trong lúc đất nước rơi vào phen loạn lạc, nỗi thương nhớ quê hương dâng lên nghẹn ngào và nỗi buồn thương cho thân phận mình nơi đất khách quê người
" Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm"
Có thể thấy được bốn câu thơ đầu là câu đề với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng buồn tại vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang
"Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm
(Lác đác rừng phong hạt móc sa
Ngàn non hiu hắt, khí thu loà)
Điểm quan sát của tác giả là ở một vị trí cao, có thể quan sát được toàn cảnh nơi đây. Mọi thứ được miêu tả theo chiều sâu và theo chiều rộng. Hình ảnh hiện ra đầu tiên là hình ảnh rừng phong với sương móc còn phủ lên chúng, tạo cảnh tượng buồn, nhấn mạnh sự ly biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu tới. Những dấu hiệu rừng phong, hạt sương chính là những hình ảnh quen thuộc của mùa thu.
Hai câu thơ mở đầu là bức tranh miêu tả cảnh thiên nhiên rừng núi nhưng điểm chung là nỗi buồn đang ngấm dần vào tác giả, nỗi buồn ấy như đang chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi đặt bút viết lên những vần thơ ấy:
"Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng
Tái thượng phong vân tiếp địa âm
(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa)
Hai câu thơ tiếp theo, không gian đã được mở rộng, hoành tráng và dữ dội. Nó như muốn lột tả sự hùng vĩ của hai ngọn núi Vu Sơn, Vu Giáp nhưng cũng bí hiểm, âm u. Bốn câu thơ với bốn màu sắc miêu tả khác nhau, khi gần khi xa, khi cao khi thấp. Cảnh sắc mây trời, rừng núi hiện ra với những nét đặc trưng của mùa thu.
Chính cảnh sắc mùa thu như vậy làm thi nhân nhớ quê hương da diết:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm
Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm"
(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình quê
Lạnh lùng giục kẻ tay dao trước
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà)
Những câu thơ tiếp theo nhà thơ tập trung vào miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là niềm mong ngóng quê hương, nỗi khát khao được trở về quê nhà, sự buồn bã khi phải sống tha phương. Hình ảnh hoa cúc khiến tác giả phải rơi lệ khi nhìn thấy, nhớ tới mùa thu ở quê hương mình. Những hình ảnh được sử dụng như con thuyền đơn độc, nhưng ẩn sâu trong đó là sự hy vọng về một ngày trở lại quê hương dấu yêu của mình.
Âm thanh của tiếng chày đập vải trên sông khiến bức tranh đìu hiu ấy sinh động hơn. Âm thanh duy nhất ấy khiến không gian trở nên náo nhiệt hơn nhưng cũng không đủ xua đi những áng mây buồn đang bủa vây trong lòng thi nhân.
Hai câu cuối bài thơ mang thật nhiều ý nghĩa. Với thể thơ Đường luật thì hai câu kết thường là nơi tác giả bộc bạch tình cảm, nhưng ở đây tác giả lại dẫn tới những hình ảnh của cuộc sống nhộn nhịp. Nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài, cò trong lòng nhà thơ vẫn man mác buồn.
Những hình ảnh trong bài thơ mang đậm màu thu. Tác giả đã thu trọn cái hồn của mùa thu vào bài thơ. Đó là một buổi chiều thu đặc biệt trên mảnh đất Quý Châu, nơi đang xảy ra loạn lạc. Tác giả ngày đêm mong muốn trở về quê hương.
Với kết cấu chặt chẽ, câu thơ bám sát chủ đề, thể hiện được hai yếu tố nổi bật đó là "tình" và "thu",vừa tả cảnh, vừa chứa đựng quan niệm nghệ thuật. Trong thơ Đỗ Phủ mối quan hệ giữa không gian và thời gian có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Đây là một bài thơ mang đậm phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Đối với ông, mùa thu là mùa của nỗi buồn, nỗi nhớ.
Qua bài thơ, ta thấy được một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm lại rung động với cảnh sắc mùa thu. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, khẳng định tài năng của ông và là một bài thơ tiêu biểu về mùa thu của thi ca Trung Quốc.
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 3
Thu hứng (bài số 1) của Đỗ Phủ là một bài thơ tiêu biểu, hết sức thâm thúy, hàm súc, kín đáo. Trong bài thơ tâm và cảnh, thi và họa, động và tĩnh, trộn lẫn, lắm lúc khó lòng phân biệt.
Có thể tạm chia bài thơ làm hai phần với bốn câu đầu là cảnh thu và bốn câu sau là nỗi lòng nhà thơ. Cách phân chia như vậy phù hợp về logic hình thức nhưng chưa thực xâm nhập vào chiều sâu quan hệ biện chứng giữa hai phần của bài thơ. Chúng ta biết rằng đặc trưng của thơ cổ nói chung, thơ Đường nói riêng là cái nhìn đồng nhất con người và vũ trụ (“Thiên nhân tương đồng”). Cái “tôi” (tiểu ngã) chỉ là một phần của cái “ta” vũ trụ (đại ngã). Do đó, các nhà thơ cổ nói “cảnh” cũng là đế nói “tâm”, nói “tâm” thường thông qua vẽ “cảnh”. Các nhà thơ Trung Hoa xưa thường nhắc đến mối quan hệ này. Đó là “Tâm nhập vào cảnh” (Vương Xương Linh) “Lòng nhập vào cảnh” “Tình dĩ cảnh hội” (Yên Hoàng Đạo) “Tình bất gặp cảnh”, “Cảnh dĩ tình hợp”, “Tình dĩ cảnh sinh” (Vương Phu Phi). Ngay bốn câu đầu, qua những nét bút chấm phá về cảnh đã toát lên góc nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ. Chỉ có điều, cảnh ở đây dường như được vẽ ra bằng những nét bút có phần rõ ràng, “khách quan” hơn so với bốn câu thơ sau. Bài thơ có thời gian: mùa thu; có (lịa điểm: Vu Sơn, Vu Giáp (thuộc thượng sông Trường Giang, vùng Quý Châu thuộc tình Tứ Xuyên). Cảnh ở đây cũng có phần được cá biệt hóa với màu sắc hùng vĩ, độc đáo: núi non hiểm trở, sóng bọt lưng trời, mây sa mặt đất. Cảnh vật hiện lên dần như trên một đoạn phim lướt vội. Ong kính hắt đầu từ rặng phong tiêu điều vói sương móc trắng xóa (Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm), (chữ “lác đác” trong bài dịch chưa thật sát với nghĩa nguyên tác), đến cảnh núi Vu và kèm vu hiu hắt, dần đến những đợt sóng bọt lên lưng trời giữa dòng sông rồi đứng lại ở những dám mây sa sẩm giáp mặt đất nơi cửa ải. Bốn câu thơ cũng làm ta nhớ đến những bức tranh thủy mặc với lối vẽ chấm phá tài tình. Cảnh vật hiện lên trong cái “thần”, cái “hồn” của nó. Nhưng sau bức tranh kia đã ấn giấu bao nhiêu tâm trạng. Tâm trạng ấy trước hết thể hiện ở sự lựa chọn cảnh vật. Nhà thơ xưa không đặt nhiệm vụ khám phá đối tượng mình quan sát (dù bên trong hay bên ngoài) mà chi là sắp xếp, tỉa tót nó cho phù hợp với sự cảm nhận duy lí. Thơ cổ không phân biệt rạch ròi chủ thể và khách thể. Ngay nét chấm phá đầu tiên “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” đã mở ra hướng lựa chọn. Cảnh tượng móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng phong làm ta nhớ đến những rừng phong, cây phong khác trong thơ cổ. Cây phong trong thơ Đường như gắn với nỗi buồn, với chia li. Trong Tì bà hành (Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu), trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có “Rừng phong thu dã nhuốm màu quan san” đều hiu hắt trong mắt nàng Kiều.
Những nét vẽ cảnh tiếp theo dường như càng tô đậm thêm cái nét hoang vắng, hiu hắt, buồn bã trong tâm hồn nhà thơ. Đành rằng cảnh vật ở đây cũng có nét hùng vĩ nhưng nét hùng vĩ không lấn át được vẻ buồn, tàn tạ, không làm tan cái buồn, hiu hát tràn từ núi đến rừng.
Hai câu tiếp theo đối nhau về ý và lời, tạo nên cảnh đối nghịch trong bức tranh “Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng - Tái thượng phong vân tiếp địa âm” (Lưng trời sóng rợn lòng sông thám - Mặt đất mây đùn cửa ải xa) cho ta những ấn tượng trái ngược: Cảnh vừa dữ dội, hoành tráng lại vừa bức bối, bị vây hãm không thoát ra được. Đúng là bức “tâm cảnh” trong con mắt một kẻ xa quê, nhớ quê, lòng buồn trĩu nặng, đồng thời cũng bứt rứt, bức bối, không yên khi nhìn về quê nhà và trông ra thế sự. Kim Thánh Thân thật có lí khi bình rằng: “ngước mắt nhìn sông chì thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thây gió mây mịt mờ liền đất. Thực đúng đau tức, bi thương, khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt”.
Bốn câu sau, tác giả tiếp tục phát triển cảm xúc của mình. Ở đây thê hiện nỗi lòng trực tiếp hơn, cụ thể hơn nhưng vẫn thâm trầm, kín đáo. Cái nhìn duy lí đã trừu tượng hóa những sự vật cụ thể. Tác giả nói đến hoa cúc, đến con thuyền nhưng chúng là “tâm” hay là “cảnh”, thật lòng lòng phản biệt. “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” (Khóm cúc nở hoa hai lần: những giọt lệ ngày trước) và “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền lẻ loi buột chặt tâm lòng nhớ vườn củ), ở đấy lời ít ý nhiều, không rõ hoa cúc nhỏ lệ hay thi nhân nhỏ lệ bên khóm cúc, không hiểu dây buộc thuyền hay dây thắt lòng người. Hồ Sĩ Hiệp cho rằng những câu thơ này có thể hiểu theo hai cách: “Cúc đã nở hoa hai lần và đã hai lần làm chảy dòng lệ cũ” hoặc có thể hiểu “Nhìn cúc nở mà tưởng như cúc đã nhỏ lệ”. Dù hiểu cách nào thì cũng thấy rằng ở đây “cánh” đã nhòa vào “tâm”, đã “hội” vào “tâm”. Tác giả đã đồng nhất: tình và cảnh, hiện tại và quá khứ (giọt lệ hiện tại cũng là giọt lệ quá khứ), sự vật và con người (sợi dây cụ thể và sợi dày lòng). So sánh với hoàn cảnh nhà thơ có thề’ hiểu Đỗ Phủ từ khi rời thành đô đến Quý Châu đã được hai năm, trải qua hai mùa thu. Dòng “lệ cũ” của nhà thơ không chỉ “tuôn” ra một lần mà đá nhiều lần rồi. Và đúng như có người nhận xét trong thơ ông già Thiếu Lăng đã lão hóa chốn thanh khốc, cảm thời hoa tiền lệ...
Hai câu thơ kết của bài thơ này thật độc đáo, mở ra nhiều ý nghĩa. Trong thơ Đường, hai câu kết thường là tỏ lòng, nêu trực tiếp cảm xúc nhưng đây tác giả lại hướng nó về cảnh khách quan bên ngoài. Nhưng ờ đoạn đầu, cảnh khách quan là “tĩnh” thì ở đày lại “động”. Cảnh rộn ràng hơn trong không khí “rộn ràng dao thước để may áo rét’’ và âm thanh tiếng chày đập áo dồn dập về chiều trên thành Bạch Đế. Nhịp thơ dường như cũng nhanh hơn, gấp hơn. Thế nhưng, đó chỉ là ngoại cảnh, tấm lòng nhà thơ thì chưa chắc đã có đổi thay. Bởi góc nhìn của nhà thơ vẫn là cái nhìn trong ánh chiều hắt hiu. Tiếng đập áo buổi chiều trên thành Bạch cao ấy (Thành Bạch chày vang bóng ác tà) dễ đưa người ta đến những liên tưởng buồn. Nó dường như cùng hòa vào “gam” nhạc buồn của tiếng đập áo đêm trăng của người chinh phụ nhớ chồng trong Đảo y thiên của Lí Bạch (Chiếc áo đêm trường đập bóng trăng), hay tiếng chày đập áo của người phụ nữ trong mùa thu trong thơ Bạch Cư Dị(Thu đến nhớ chồng đập lụa, gió trăng não lắm đá chày ơi) Tiếng chày ấy đang báo hiệu một mùa đông đến gần, mùa đông với một ( thiếu cơm, thiếu áo, không nhà, ở nhờ trên đất khách và tấm lòng thì luôn nặng trĩu nỗi lo và nỗi nhớ.
Như vậy, trên cái nền của cảnh thu với rừng thu, khí thu, hoa thu, tiếng thu, nhà thơ đã hòa vào đó tâm trạng của chủ thể trữ tình, một tâm trạng đượm buồn, da diết, sầu thương, khắc khoải trong tình quê nặng và nỗi âu lo kín đáo về thế sự.
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 4
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Đứng ở thành Quỳ Châu, nhìn ra phong cảnh bốn bề. Lúc ấy sương móc sa xuống, lá phong trong rừng đã thấy úa vàng, trên dãy núi Vu Sơn, bóng tối mịt, mù, đủ thấy khí hậu rét lắm. Ớ nẻo xa xa trong lòng sông, làn sóng cồn liền với chân trời. Trên ngọn núi, vài bóng mây lờ mờ tiếp với mặt đất. Thình lình nghĩ đến cảnh mình, tác giả sực nhớ mình đã lênh đênh đất khách đến hai năm trời, khóm cúc ở các nhà chắc đã hai lần nở hoa, sau này về trông thây chắc phải xót cảnh lưu lạc mà rỏ nước mắt.
Bây giờ tạm trú ở đây, không phải là lâu dài chắc chắn, cho nên cứ luôn nhớ đến quê hương, lòng mong mỏi cố hương của mình chẳng khác gì một chiếc thuyền lênh đênh giữa dòng sông có lúc buộc lại. Nhưng cái ngày ấy biết là ngày nào? Hiện nay mùa thu sắp hết, mùa rét sắp đến, trên thành Bạch Đế mỗi lúc trời chiều, tiếng chày đập vải đã thấy rộn rịp, mau kíp như giục những ai quên việc kéo thước phải sắm áo lạnh. Đáng buồn vô cùng (Ngô Tất Tố dịch).
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Nguyễn Công Trứ dịch
“Hứng” là nói “nổi lên” (hứng). Gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sì trước thu thì tình sâu xa; phàm núi sông rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cò, hương hoa, cái mắt thấy, điều tai nghe, có gì là không cùng với tấc lòng cùng chứa chất nhau, là không chợt tự nhiên tiếp xúc mà phát sinh ra. Tiên sinh với tấm lòng trung tín gặp buổi nhiêu linh, lại đem cái thân lưu ngụ trải qua mùa thu héo rạng này, thì hứng ấy thực là hứng mất hết, lòng nguội tro, ý tiêu tan, chẳng có mảy may hứng nào, vì thế có tám bài này. Số bài mô phỏng của người sau nhiều đến thế như “mồ hôi trâu đầy cột” (hãn ngưu sung đồng); thấy tiên sinh khéo đặt đề thơ, họ cũng từng làm thử theo. Đầu đề là “thu hứng” mà thơ thì lại không có hứng. Người làm thơ trong lòng không có hứng mà lại muốn làm thu hứng, vì thế chẳng những thơ đúng thực là tha diệu mà đề cũng đúng thực là để diệu; chẳng những đề đúng thực là đề diệu mà tiên sinh cũng đúng thực là người diệu. Từ xưa đến nay, thơ gồm bao nhiêu bài thì nhiều thêm một bài không được, mà ít đi một bài cũng không được. Như thế này gồm tám bài thì bảy bài không được, mà chín bài cũng không được. Tôi nói như vậy nhiều lần rồi mà có người chưa mấy tin: xin hãy xem thơ này bài thứ nhất thuần tả “thu”, bài thứ tám thuần tả “hứng” thì sẽ biết tám bài là một vậy.
(1 - 4) “Lộ” (móc) mà nói là “ngọc lộ” (móc ngọc), “thụ lâm” (rừng cây) mà nói là “phong thụ lâm” (rừng cây phong); chỉ một cõi “điêu thương* (héo hon) mà “trắng” thì tả rất mực “trắng”, “đỏ” thì tả rất mực “đỏ”, “thu” sở dĩ “hứng” chính là vì thế. Tiếp theo hạ chữ “Vu Sơn”, “Vu Giáp”, liền thấy cái khí “tiêu sùm” (mịt mờ), thảy đều lạnh lùng, vắng lặng, mà hai câu “ba lãng”, “phong ván” thì thừa tiếp ngay “Vu Sơn, Vu Giáp”. Còn như nói “móc ngọc” tả tơi, “rừng phong” soi lá, thì tả cảnh ấy tuy khiến cho người chí sĩ thêm nỗi bi ai, cũng là nơi mà kẻ u nhân gửi niềm hoài bão. Sao lại ở hoài chốn Vu Sơn, Vu Giáp mà ngước mắt nhìn sông, chỉ thấy sóng vọt ngất trời, mà đăm đăm trông lên ải, chỉ thấy gió mây mịt mờ liền đất?
Thực đáng đau đớn bi thương! Khiến cho người ta lòng hết khí tuyệt. Một giải xâu suốt cả tám bài, nối thẳng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người đẹp nhặt lóng chim thúy), rồi than “bạch đầu ngâm vọng khổ đê thùy” (đầu trắng ngâm trong khổ cúi buồn).
(5 - 8) Kẻ không biết thì bảo “lưỡng khai” (nở hai lần) ấy là “tùng cúc” (khóm cúc), đâu biết rằng “lưỡng khai” ấy đều là “tha nhật lệ” (nước mắt ngày sau)! Kẻ không biết thì bảo “cô chu” (con thuyền lẻ loi) hà tất phải “nhất hệ” ấy chỉ là “cố viên tâm” (lòng nhớ vườn xưa)! Trên chữ “lệ” đặt chữ “tha nhật”: tuyệt diệu! Chỉ có chính mình ở vào hoàn cảnh đó thì mới biết được. Câu 7 nói “xứ xứ” (nơi nơi) chính là tiên sinh “buộc lòng” (hệ tâm) vào một nơi (nhất xứ); Bạch Đế thành ở phía đông Quý Phủ: đây là nói gần để chỉ xa vậy. Trong bụng nghĩ đến “dao thước” (dao xích) trong nhà, mà trong tai chỉ nghe thấy tiếng châm thành Bạch Đế; khách xa nhà vì thế mà rất mực thê lương. Dưới “châm” mà hạ chữ “thành cao” liền thấy được là tai xa nghe, mắt xa trông nỗi khổ của khách xa nhà vì đó mà rất mực thê lương. Các câu 3, 4 thừa các câu 1, 2; các câu 5, 6 chuyển đến các câu 7, 8: cứ xem như thế thì biết lời tôi “phân giải” không lầm đâu.
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 5
Đỗ Phủ (712 – 770) là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời nhà Đường. Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sử và Thi thánh. Hàng ngàn bài thơ của ông có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Bên cạnh đó, Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. “Thu hứng” là một trong những bài thơ đó.
Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được sáng tác vào năm 766, khi Đỗ Phủ đang sống phiêu bạt ở Quý Châu. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Chính hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương của nhà thơ cũng chính là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng. Bài thơ vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu ở hai câu thơ đầu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Cảnh tượng vào mùa thu thật khiến cho tâm hồn con người xao xuyến mông lung có cái cảm giác trống trải trong tâm hồn con người, và những cảnh vật thiên nhiên xao sát khiến cho tâm hồn còn người sầu lại càng sầu hơn. Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong: “Lác đác rừng phong hạt móc sa”. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nhắc đến Vu Sơn, Vu Giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm. Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.
Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Các tính từ “rợn”, “thẳm” đã diễn tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Dường như cảnh đời điêu linh đã thấp thoáng ẩn hiện đâu đó sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng?
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ. Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng biểu tượng cho mùa thu. Mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ, câu thơ nguyên văn chữ Hán: Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước. Theo bản dịch của Nguyễn Công Trứ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chứa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xa quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là Đỗ Phủ sống ở Quý Châu đã được hai năm. Hoa cúc đã khiến lòng thi nhân không khỏi ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.
Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm”. Câu thơ chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng. Chính vì vậy, Đỗ Phủ mới ngậm ngùi nhớ lại mùa thu ở chốn cũ và đồng thời mong ước có một con thuyền chở ước mơ ấy của nhà thơ. Đọc đến đây, người đọc không khỏi nghẹn ngào, xúc động, và rạo rực trong lòng.
Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Chính âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải kia đã đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui. Tuy nhiên, thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn và tâm trạng rối ren đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ. Hơn thế nữa, tiếng chày đập vải như nhắc nhở mọi người rằng khí thu lạnh lẽo và mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Ở câu thơ thứ tư đã nêu lên bối cảnh lịch sử theo bao nỗi lo. Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo lắng của người vợ còn đó. Trời đã tối, không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, ông cảm thấy không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm Thu hứng.
Cảnh có thiên nhiên của mùa thu (khí, gió, sương) và đặc biệt là tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả đã thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thơ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chỉ ôm ấp một hi vọng mong manh và giản dị là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiệnthực sâu sắc và chan chứa tình đời.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu ”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.
“Cảm xúc mùa thu” là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Bài thơ dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ.Nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình được Đỗ Phủ thể hiện đậm nét qua bài Thu Hứng và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thơ Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 6
Đỗ Phủ được mệnh danh là Thi Thánh, một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, có giá trị, khoảng 1500 bài thơ. Cảm xúc mùa thu được trích từ chùm thơ “Thu hứng” gồm có tám bài. Cảm xúc mùa thu được đánh giá là bài thơ hay nhất, có nội dung bao quát bảy bài thơ còn lại. Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê hương tha thiết, khắc khoải của tác giả.
Tác phẩm được sáng tác năm 766 trong thời điểm Trung Quốc đã chấm dứt loạn An Lộc Sơn. Loạn An Lộc Sơn đã gây ra hậu quả khủng khiếp. Triều đại nhà Đường rơi vào suy thoái. Cả nội chiến và ngoại xâm đều có nguy cơ bùng nổ. Tình cảnh của nhân dân vô cùng khốn khổ, bản thân Đỗ Phủ cũng phải trải nghiệm sự khốn khổ, điêu linh đó. Khi ấy Đỗ Phủ đến vùng đất Tứ Xuyên, được sự giúp đỡ của một người bạn thân làm quan nhưng sau khi bạn thân mất, ông mất chỗ dựa. Đưa gia đình về nhưng đói khổ nên bị mắc lại ở Quỳ Châu hai năm trong tình cảnh nghèo túng, bệnh tật, bế tắc. Trong những năm này ông sáng tác nhiều, giọng thơ bi thiết, buồn thảm.
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Câu thơ đầu đã cho độc giả thấy ba hình ảnh đặc trưng nhất của mùa thu là: rừng phong, hạt móc, nghìn thu, ba hình ảnh này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau gợi cảm giác lạnh lẽo, thê lương. Sương móc vốn là loại sương đặc trưng của mùa thu Trung Quốc, loại sương gợi nên sự giá buốt, lạnh lẽo. Nhưng trong câu thơ dịch không truyền tải được tinh thần của nguyên tác: Sương móc rơi lác đác – lác đác là tính từ cho thấy sự thưa thớt của những hạt sương rơi. Tạo nên cảnh tượng mờ ảo, quyến rũ. Nguyên tác phải là Sương móc trắng xóa dày đặc, giăng mắc, bao phủ khắp không gian, cảnh vật. Màu trắng không gợi ra sự tinh khôi, thanh khiết mà gợi ra sự ảm đạm và hiu hắt, lạnh lẽo. Kết hợp với làn sương trắng xóa, hiu hắt là hình ảnh rừng phong, vốn rừng phong vào mùa thu có màu đỏ, gợi nên sự ấm nóng, rực rỡ. Nhưng với làn sương trắng xóa dày đặc, đã khiến cả rừng thu trở nên xơ xác, tiêu điều. Sang đến câu thơ thứ hai, khắc họa rõ nét hơn sự ảm đạm, hiu hắt của khung cảnh thiên nhiên. Vu sơn, Vu giáp là những dãy núi chạy dài, không có một khoảng trống. Vùng núi cao ấy không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời nên rất tăm tối, ảm đạm. Kết hợp với làn sương dày đặc càng khiến không gian thêm ảm đạm, hiu hắt hơn. Ba hình hình kết hợp lại với nhau mang đến cho người đọc sự cảm nhận về bức tranh cảnh thu nơi đất khách: lạnh lẽo, tiêu điều, hiu hắt tăm tối.
Nếu ở hai câu đề, tác giả bao quát cảnh thu theo chiều rộng thì ở hai câu thực, tác giả bao quát cảnh thu theo chiều cao: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thương phong vân tiếp địa âm. Câu thơ được tác giả sử dụng kết hợp biện pháp nghệ thuật đối và phóng đại: Sóng vọt lên tận lưng trời; Mây sà xuống giáp mặt đất. Hai sự vật thiên nhiên vận động trái chiều: vọt lên, sà xuống, các động từ đã nhấn mạnh hơn nữa vào sự vận động ngược chiều đó. Hai sự vật vận động ngược chiều, ép sát vào nhau, khiến không gian bị ken đặc lại, bị lấp kín bới cái mờ ảo, hoang vu của sông và mây. Bức tranh thu hiện lên hùng vĩ nhưng âm u, dữ dội, đầy ngột ngạt.
Bốn câu đầu mở ra không gian nhìn từ xa: rừng phong, sông núi, cửa ải,… bốn câu sau mạch thơ có sự vận động về gần, trước mắt tác giả là hình ảnh:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Với ý tứ sâu xa, bản dịch thơ đã không truyền tải được hết ý nghĩa của nguyên tác. Câu thơ thứ năm mang đến nhiều cách hiểu, khi chủ thể của hoạt động nước mắt tuôn rơi đều bị ẩn đi. Câu thơ có thể hiểu nước mắt tuôn rơi là của khóm cúc vì những cánh hoa nở ra đều mang hình giọt lệ, khóm cúc nở hoa cũng là khóm cúc đang tuôn rơi những giọt lệ. Nhưng cũng có thể hiểu chủ thể của nước mắt là thi nhân. Cứ mỗi lần nhìn khóm cúc nở hoa là một lần nhận ra thời gian chảy trôi, mà mình thì bị buộc ở đây mãi, càng chạnh lòng, lại thức dậy nỗi nhớ quê trong bất lực. Dù hiểu theo cách nào câu thơ chất chứa nỗi buồn đau của tác giả mỗi khi hoa cúc nở. Khóm cúc nở hoa đã hai lần nhấn mạnh vào con số, hai năm – khoảng thời gian gia đình tác giả lưu lạc và mắc lại ở mảnh đất Quỳ Châu. “Lưỡng khai” còn là con số ước lệ – số nhiều – gợi ra nỗi đau triền miên và dai dẳng. Không chỉ năm nay hoa cúc nở mới làm thức dậy nỗi đau mà nỗi đau ấy từ năm ngoái, cho thấy nỗi đau triền miên, dai dẳng, thường trực từ rất lâu. Nỗi đau trong bế tắc – nỗi đau thời thế, nỗi nhớ quê hương mà không thể nào có thể trở về quê hương.
Cảnh ngộ lẻ loi của tác giả thể hiện rõ ràng hơn trong hình ảnh “cô chu” – hình ảnh con thuyền cô đơn, lẻ loi. Đồng thời gợi ra cảnh ngộ cô đơn, lẻ loi, trôi nổi nơi đất khách của tác giả. Câu thơ trước hết là hình ảnh thực: con thuyền chở gia đình nhà thơ về quê đã bị mắc lại ở Quỳ Châu. Đằng sau nghĩa thực là một hàm ý: gửi gắm nỗi nhớ quê buộc chặt trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách. Chữ “buộc” trở thành nhãn tự của câu thơ, vừa là sợi dây buộc con thuyền, vừa là sợi dây thắt lòng người.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong nỗi nhớ quê hương da diết ấy, cảnh rộn ràng tiếng dao thước may áo rét, tiếng chày đập áo dồn dập càng cho thấy rõ hơn nỗi niềm của kẻ xa quê phải tha hương nơi đất khách quê người. Nhưng bên cạnh đó hình ảnh ấy còn cho thấy nỗi lo lắng vì đất nước vẫn chưa được yên bình.
Với ngôn từ hàm súc, cô đọng, bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Đỗ Phủ đã tái hiện bức tranh thu xơ xác, tiêu điều, lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh ấy còn gửi gắm tâm trạng bài thơ: nỗi lo cho đất nước, nỗi nhớ quê hương và nỗi xót xa cho thân phận của chính mình.
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 7
Đỗ Phủ (712 – 770) tên chữ là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Thủa trẻ Đỗ Phủ cũng đi thi nhưng không đỗ. Suốt cuộc đời, ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Tuy vậy, ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông không bao giờ tắt. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Bên cạnh những bài thơ được coi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu.. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng.
Bài thơ có thể chia làm hai phần: Bốn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh vé thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách.
Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong: Ngọc lộ điếu thương phong thụ lâm (Lác đác rừng phong hạt móc sa). Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.
Câu thứ hai: Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Nhắc, đến Vu sơn, Vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ. Được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.
Vẫn tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng như thế nên Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa.
Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiển hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa… Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng hình như nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng!
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất Chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ.
Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên văn chữ Hán ; Tùng cúc lường khai tha nhật lệ (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước). Nguyễn Công Trứ dịch thoát ý là : Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chửa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xạ quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.
Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: Cô chu nhất hệ cố viên tâm. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). Câu thơ dịch bỏ mất tính từ cô trong Cô chu chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Hãy đọc lại câu thơ thứ tư: Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u). Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… “Ngôn tận nhi ý bất tận” (lời hết mà ý không hết). Đỗ Phủ cảm thấy Không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm Thu hứng.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu “, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.
Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.
Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Thu hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như Đăng cao, Mao ốc thu phong vị sở phá ca . . được lưu truyền rộng rãi qua hàng ngàn năm, Thu hứng góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh lá bậc “Thi thánh” của thơ? Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
Phân tích bài thơ Thu Hứng - mẫu 8
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực lớn của văn học Trung Quốc với những bài thơ phản ánh hiện thực, bày tỏ tình cảm, thái độ, tâm trạng xót xa của con người trước hiện thực cuộc sống của nhân dân. Một trong những tác phẩm tiêu biểu không thể không nhắc đến của ông là Tuyển tập. Du Fu sinh ra ở Hà Nam, Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống nho học và thơ văn lâu đời. Cả đời ông sống trong nghèo đói và bệnh tật. Nhưng ngọn lửa đam mê văn chương vẫn cháy trong lòng ông. Ông sáng tác nhiều và để lại hàng nghìn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử của thời đại. Ông đã được công nhận là danh nhân văn hóa toàn cầu. Đỉnh cao sự nghiệp văn chương của Đỗ Phủ là thời Bắc Tống, các tác phẩm của ông được đánh giá toàn diện, tên tuổi của nhà thơ gắn liền với sự phát triển của Tân Nho giáo. Tuyển tập là bài thơ đầu tiên trong chùm tám bài thơ do Đỗ Phủ sáng tác năm 766 khi ông đang sống ở Quý Châu. Mười một năm sau khi loạn An Lộc Sơn bùng nổ, tuy dẹp loạn nhưng đất nước đã kiệt quệ vì chiến tranh, nhà thơ vẫn phải lưu lạc nơi đất khách. Chính hoàn cảnh này đã khơi nguồn cảm xúc để tạo nên bộ sưu tập. Như ta thấy, mùa thu trong văn học là mùa được nhiều nhà thơ chọn để gửi gắm tâm tình. Mùa thu làm tâm hồn con người lãng mạn, thả hồn theo gió, ta cũng thấy man mác buồn. Cảm nghĩ về mùa thu là hình ảnh mùa thu cô đơn, trĩu nặng tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đất nước lâm vào cảnh loạn lạc, nỗi nhớ quê hương trào dâng, xót xa cho thân phận nơi xứ người.
“Đường Ngọc yêu rừng
Vu Sơn, Vũ Giáp Tiêu Nhân Sâm
Giang, ba lãng tử, và Thiên dũng cảm
Tái xuất hiện và động đất
Tùng cúc bi-khai tha ngày
Cô là người chu đáo nhất trong hệ thống cố vấn
Thuốc Hàn Quốc từ nước xuất xứ
Thành Bạch Đế là một bia mộ cao cấp"
Có thể thấy, bốn câu thơ đầu là cụm tựa nhằm diễn tả bức tranh thiên nhiên bao la mà đượm buồn của núi rừng phía trên Trường Giang.
"Con đường ngọc yêu rừng"
Vu Sơn, Vũ Giáp Tiêu Nhân Sâm
( Rải rác bụi đường móc sa
Một ngàn bóng tối non, không khí xốp)
Điểm thuận lợi của tác giả là ở vị trí cao, có thể quan sát toàn cảnh nơi đây. Tất cả mọi thứ được thể hiện trong chiều sâu và chiều rộng. Hình ảnh đầu tiên hiện ra là hình ảnh những cánh rừng phong còn đọng sương sớm tạo nên một khung cảnh đượm buồn, làm nổi bật sự chia ly khi lá phong chuyển sang màu đỏ, khi mùa thu đến. Rừng phong đăng, những giọt sương mai là hình ảnh quen thuộc của mùa thu. Hai câu thơ đầu là một hình ảnh miêu tả cảnh thiên nhiên núi rừng nhưng điểm chung là nỗi buồn thấm dần vào lòng tác giả, nỗi buồn dường như chi phối cả tâm trạng và cảm xúc của tác giả khi đặt bút viết . Câu này:
“Vô sự, tam-lãng-đức
Tái xuất hiện và động đất
( Lưng trời gợn sóng lòng sông sâu
Mặt đất mây và cửa xa)
Hai câu thơ sau, không gian đã mở rộng ra, hoành tráng và dữ dội. Dường như muốn lột tả sự hùng vĩ của hai ngọn núi Vu Sơn và Vu Giáp nhưng cũng không kém phần huyền bí, âm u. Bốn câu thơ với bốn màu gợi tả khác nhau, khi gần, khi xa, khi cao, khi thấp. Cảnh sắc mây trời, núi rừng hiện ra với nét đặc trưng của mùa thu. Cảnh sắc mùa thu ấy khiến nhà thơ vô cùng nhớ quê hương:
“Tùng cúc bi-khai tha Nhật Lệ”
Cô là người chu đáo nhất trong hệ thống cố vấn
Thuốc Hàn Quốc từ nước xuất xứ
Thành Bạch Đế là một bia mộ cao cấp"
(Cúc thêm nước mắt xưa
Con thuyền gắn kết tình quê hương
Lạnh lùng thúc giục con dao đầu tiên
Thanh Bạch, bóng chày vang bóng quỷ)
Những dòng tiếp theo mà nhà thơ tập trung miêu tả cảm xúc cũng là những câu thơ chứa đựng nhiều cảm xúc, đó là nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ quê hương, nỗi buồn xa xứ . . Hình ảnh hoa cúc khiến tác giả rơi nước mắt khi nhìn thấy nó, nhớ về mùa thu trên quê hương mình. Những hình ảnh được sử dụng như một con thuyền đơn độc, nhưng ẩn sâu trong đó là niềm hi vọng về một ngày được trở về quê hương thân yêu. Tiếng chày đập vải trên sông càng làm cho hình ảnh buồn tẻ thêm sống động. Chỉ riêng âm thanh này đã làm cho không gian thêm sống động, nhưng không đủ để xua đi những đám mây buồn đang bủa vây lòng thi nhân. Hai dòng cuối bài thơ có nhiều ý nghĩa. Với thể thơ Đường luật, hai câu cuối thường là nơi tác giả bộc lộ cảm xúc của mình, nhưng ở đây tác giả dẫn đến những hình ảnh của cuộc sống tất bật. Nhưng đây chỉ là vẻ bề ngoài, con cò trong lòng thi nhân vẫn buồn. Những hình ảnh trong bài thơ mang đậm màu sắc mùa thu. Tác giả đã thổi trọn cái hồn của mùa thu vào bài thơ. Đó là một buổi chiều mùa thu đặc biệt trên mảnh đất Quý Châu, nơi đang diễn ra sự hỗn loạn. Tác giả ngày đêm mong được trở về cố hương. Với kết cấu chặt chẽ, đoạn thơ bám sát chủ đề, thể hiện được hai yếu tố đáng chú ý là “tình” và “thu”, cả hai đều tả cảnh và chứa đựng quan niệm nghệ thuật. Trong thơ Đỗ Phủ, mối quan hệ giữa không gian và thời gian đan xen. Đó là bài thơ theo phong cách trữ tình của Đỗ Phủ. Với anh, mùa thu là mùa của nỗi buồn và nỗi nhớ. Qua bài thơ ta thấy được tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, rung động trước cảnh sắc mùa thu. Tấm lòng Đỗ Phủ đã dành cho quê hương. Những bài thơ của ông có sức lay động mạnh mẽ, khẳng định tài năng của ông, là một bài thơ mùa thu tiêu biểu trong thơ ca Trung Quốc
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 10 khác:
Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ (Bài văn mẫu 1)
Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu của Đỗ Phủ (Bài văn mẫu 3)
Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:
- Giải bài tập Lớp 10 Kết nối tri thức
- Giải bài tập Lớp 10 Chân trời sáng tạo
- Giải bài tập Lớp 10 Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Lớp 10 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 10 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - KNTT
- Giải sgk Toán 10 - KNTT
- Giải sgk Vật lí 10 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 10 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 10 - KNTT
- Giải sgk Địa lí 10 - KNTT
- Giải sgk Lịch sử 10 - KNTT
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - KNTT
- Giải sgk Tin học 10 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 10 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - KNTT
- Lớp 10 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 10 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - CTST
- Giải Toán 10 - CTST
- Giải sgk Vật lí 10 - CTST
- Giải sgk Hóa học 10 - CTST
- Giải sgk Sinh học 10 - CTST
- Giải sgk Địa lí 10 - CTST
- Giải sgk Lịch sử 10 - CTST
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - CTST
- Lớp 10 - Cánh diều
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều