Top 15 Phân tích 8 câu cuối Trao duyên (điểm cao)

Tổng hợp các bài văn Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Bài giảng: Trao duyên - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 1

Dù chỉ là một trích đoạn ngắn từ “Truyện Kiều” nhưng “Trao duyên” đã góp phần thể hiện thành công những vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều và tài năng sáng tác của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn trích là tiếng lòng tha thiết của Kiều về hoàn cảnh bi đát của gia đình, của phận mình và của tình yêu đầu đời đẹp đẽ. Đặc biệt, khi thể hiện nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim, Nguyễn Du đã gây được ấn tượng trong tám câu thơ cuối đoạn trích:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong việc cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên nói riêng hay toàn bộ đoạn trích nói chung, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả và tác phẩm.

Nguyễn Du (sinh năm 1765 – mất năm 1820) còn được người đời biết đến với tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Thể hiện sự tự hào về Nguyễn Du, độc giả từ bao đời vẫn không ngớt lời ca ngợi vì đại thi hào đã có rất nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà.

Là người con của vùng đất Hà Tĩnh – vùng đất sản sinh biết bao nhân kiệt cho đất nước, Nguyễn Du nổi danh với các tác phẩm được sáng tác ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, ông có những tập thơ nổi tiếng như: “Thanh Hiên tiền hậu tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Còn về chữ Nôm, có thể kể đến một số tác phẩm như: “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Thác lời trai phường nón”…

Sở dĩ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp sáng tác là do Nguyễn Du đã dùng vốn sống của mình để phản ánh trong tác phẩm hiện thực cuộc đời, không chỉ vậy nhà thơ còn bộc lộ tấm lòng nhân đạo rất vĩ đại của ông. Thực chất những tác phẩm chữ Hán của ông là những dòng tự sự về cuộc đời đầy sóng gió, bi kịch của chính ông: những biến động dữ dội của một thời đại lịch sử trong giai đoạn từ cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã khiến gia đình sống đời lưu lạc, tan tác.

Sống trong xã hội đó, Nguyễn Du được tận mắt chứng kiến những ái ố của cuộc đời thông qua hình ảnh của những thân phận nhỏ bé phải chịu cảnh chèn ép tàn nhẫn, độc ác của các thế lực đen tối trong xã hội. Một cách tổng thể, người đọc có thể cảm nhận được không chỉ ở những tác phẩm chữ Hán mà trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du đều hiển hiện rõ rệt tấm lòng chân thành của Nguyễn Du với cuộc đời.

Ông phản ánh hiện thực nhưng cốt là để bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ với những kiếp người sống trong đau khổ triền miên. Trong những phận người mà Nguyễn Du thường viết về họ, ông rất quan tâm đến những người phụ nữ sống kiếp cầm ca, phải đem tài sắc làm thú vui cho người đời. Và một thành công lớn mà Nguyễn Du đã làm được ở những sáng tác của mình mà chúng ta không thể không nhắc tới là ông đã vượt lên một cách ngoạn mục những định kiến của xã hội phong kiến để nỗ lực khẳng định giá trị cao đẹp của con người.

Là một đoạn được trích từ “Truyện Kiều”, “Trao duyên” gồm 34 câu thơ. Đây là những câu thơ nằm ở vị trí từ câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác tác phẩm. Đoạn trích hướng người đọc đến nhân vật trung tâm là Thúy Kiều trong một hoàn cảnh rất đỗi đặc biệt: Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha sau khi gia đình bị vu oan.

Trong đêm trước ngày phải xa gia đình để theo phường buôn phấn bán hương, Kiều đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay Kiều trả nghĩa cho Kim Trọng; phần còn lại của đoạn trích là những dòng viết về tâm tư nỗi niềm của Thúy Kiều khi nghĩ về cuộc đời mình và khi nhớ đến Kim Trọng.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy đây là những dòng tâm trạng đau khổ cùng cực của nàng Kiều sau khi Trao duyên

Sau khi đã nói hết nỗi lòng của mình với em gái, Kiều đã nhìn lại cuộc đời mình rồi đau đớn nhận ra sự thật phũ phàng là so với quá khứ thì hiện tại có một sự đối lập đến xót xa:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!"

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” đã mang lại sự biểu đạt rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh ấy, tác giả đã cho thấy sự nhận thức sâu sắc của nàng Kiều về bi kịch hiện tại. Kiều bàng hoàng chua xót khi so với thời quá khứ – những năm tháng Kiều đã thật hạnh phúc với mối tình đầu đời như hoa như mộng, bây giờ còn lại chỉ là những đau đớn tủi phận khi biết bao nhiêu hẹn ước tươi đẹp trở thành hư vô.

“Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ của người con gái đến tuổi để ý đến dung nhan của bản thân khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng những gì Kiều trân trọng, nâng niu để mong đến một ngày có thể cùng Trọng mãi mãi kề bên (để có thể hiện thực hóa những gì mà nàng và người yêu đã từng thề nguyền hẹn ước từ thời khắc “Kể từ khi gặp chàng Kim” – “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”) bỗng chốc chỉ trong phút giây, tai ương ập đến, tất cả những mong ước vỡ tan thành mây thành khói.

“Muôn vàn ái ân” không thể cân đo đong đếm ở miền ký ức thơ mộng có sự hiện diện của Thúy Kiều và Kim Trọng mà nàng nhắc đến ở câu thơ tiếp theo như càng làm tăng thêm sự đối lập so với những đau khổ mà nàng vừa nhắc đến ở câu thơ trước đó. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy nhìn vào tình cảnh của Kiều để thấy những gì mà nàng phải chịu đựng ở độ tuổi xuân sắc lẽ ra vốn vẫn còn được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ cha mới thấy thương, thấy xót hơn cho nàng.

Không chỉ bản thân Kiều mà ngay cả người đọc cũng không khỏi lo lắng, hoang mang cho những tháng ngày sắp tới mà Kiều phải vượt qua. Đối chiếu giữa thực tại và một thời đã xa, đau khổ có dâng trào thành từng dòng nước mắt thì Kiều cũng không thể làm nó trở về trạng thái bình yên xưa cũ, thế nên nàng chỉ còn có thể ngậm ngùi để tìm cách an ủi, động viên chính mình và người yêu:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Nói ra những lời ấy, Kiều thật mong Trọng cũng chấp nhận cho duyên tình giữa chàng và Kiều chỉ là những ký ức ngắn ngủi dù tươi đẹp biết bao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp nàng giữ duyên, Kiều cũng đã rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, giờ đây, lại thêm một lần thành khẩn, nhưng Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến một người rất quan trọng với nàng là chàng Kim. Từng lời nói, từng hành động của Kiều được thể hiện trong thơ đã giúp hiện hữu ở trang viết của Nguyễn Du hình ảnh người con gái mang nặng nghĩa tình với mối tình dang dở nhưng không có cách nào cứu vãn nó.

Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên trong hai câu thơ tiếp theo, dường như Nguyễn Du đã tạo cơ hội đã Kiều có thể trút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:

“Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Có lẽ từ đầu buổi “trao duyên” đến thời điểm thổn thức trong tiếng khóc nàng, Kiều đã rất cố gắng để kìm giữ hết sức có thể để bình tĩnh nói cho trọn vẹn điều nàng mong muốn. Đến khi nhận mong muốn em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng có lẽ đã được chấp thuận, rồi nàng cẩn thận dặn dò Thúy Vân, Thúy Kiều mới cho phép bản thân mình có thể thương xót cho nàng một cách thành thật nhất, tự nhiên nhất.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy Kiều tự ý thức được một điều là số phận của nàng không khác gì màu vôi bạc. Trước đây, khi Kiều được sống êm đềm trong mái ấm gia đình, Kiều có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra được viễn cảnh ê chề giống như ngày hôm nay Kiều chứng kiến. Nhưng thật lòng mà nói, chắc ngay cả tưởng tượng, Kiều cũng không hẳn tưởng ra những đau khổ phũ phàng lại ập đến cuộc đời mình nhanh vội như vậy, nhanh đến mức Kiều còn chưa kịp trải đời để có thể ứng phó.

Thế nên Kiều phải đối diện với nó trong bàng hoàng và sự hoang mang tột độ. Rồi nỗi đau cứ thế mà tăng lên thêm mãi khi Kiều còn nhận thấy một tương lai mù mịt, tăm tối không biết sẽ như thế nào. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng Kiều cảm nhận được đó là một tương lai “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tháng ngày sắp tới mờ mịt và có lẽ với Kiều, những gì còn lại sau những đau thương đầu đời có lẽ chỉ là những hình ảnh thân thương, quý giá về gia đình, người yêu mà Kiều lưu lại trong trí.

Cuối cùng, nỗi đau khổ, tuyệt vọng cứ tuôn trào mạnh mẽ thành tiếng gọi người yêu đầy tha thiết nhưng lại đau đến xé lòng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Mỗi một thanh âm về tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt lên chắc hẳn cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can mà đau đớn xót xa. Những từ diễn tả sự xót xa tủi phận cứ liên tiếp xuất hiện và được xâu lại thành chuỗi: “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” đã tạo thành những cơn sóng của đau thương ồ ạt bủa vây lấy người con gái đáng thương mà nàng đã gắng hết sức không để cho nó quật ngã.

Thế nhưng, có lẽ sức người có hạn, gắng gượng bao nhiêu nàng cũng không thể che giấu đi những tổn thương mà nàng đang gánh chịu. Vậy nên cố gắng cuối cùng của sự gắng gượng chính là tiếng gọi Kim Trọng để rồi sau đó, nàng nhận lỗi và nói lời tạ từ với Trọng, đó cũng là lời tự trách bản thân mình trong day dứt, dằn vặt.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng thấy tiếng kêu thốt lên ấy đã hòa trong tiếng nấc thể hiện Kiều thương mình nhưng nhiều hơn cả là sự xót xa dành cho chàng Kim. Trong sự tan vỡ của tình yêu của hai người, Kiều nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình và tự gán cho mình là kẻ phụ bạc. Việc Kiều lấy hết can đảm để thốt lên lời thú nhận đó đã làm hiện lên ở nàng những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Đó là vẻ đẹp của người con gái rất đỗi cao thượng trong tình yêu, dẫu bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn đuổi đến cùng đường để đưa ra quyết định tưởng chừng không thể đau xót hơn nữa – quyết định bán mình. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Kiều vẫn xem mình là người đáng phê phán vì đã phụ bạc một tình yêu tuy mới chớm nở nhưng đã rất đậm sâu. Đó chính là phẩm chất đáng quý nơi Kiều khiến ta mỗi lúc mỗi yêu quý nàng hơn.

Nhìn tổng thể khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Nguyễn Du đã nêu bật lên sự tha thiết, trân trọng của Thúy Kiều đối với tình yêu thông qua hành động “trao duyên”. Cũng bằng cách thể hiện đó, Nguyễn Du đã bộc lộ rõ những vẻ đẹp ở phẩm chất của người con gái đầu lòng họ Vương: vừa là một mẫu người nêu gương đạo đức khi lấy chữ hiếu làm đầu, vừa là một hình ảnh nữ nhân lý tưởng khi có ý thức và nỗ lực hết mình để thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu dành cho tình yêu đích thực của mình.

Bên cạnh những nội dung đã điểm qua ở trên, điều làm nên sự thành công trong việc chuyển tải những thông điệp mà tác giả gửi gắm còn nằm ở nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã vận dụng thật hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật ở nhân vật những phẩm chất đáng trọng. Bên cạnh đó, khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc bạch những tâm tư cùng với nỗi niềm chất chứa trong lòng của nàng Kiều.

Như vậy, với những ý nghĩa về nội dung và giá trị về nghệ thuật nói trên, đoạn trích “Trao duyên” nói chung và tám câu thơ cuối đoạn trích nói riêng đã giúp cho người đọc có thể phần nào đồng cảm và thấu hiểu cho nỗi lòng của nhân vật Thúy Kiều. Đó cũng là tình cảm dành cho những kiếp nữ nhân tài hoa nhưng bị sự cay nghiệt của số phận dồn ép đến tận cùng. Tuy nhiên, phải thừa nhận một điều rằng dù cho tình cảnh có ngang trái, éo le đến nhường nào, ở họ vẫn toát lên những vẻ đẹp đáng quý.

Dàn ý Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.

- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí, nội dung

- Đoạn cuối 8 câu cuối đoạn: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.

- Trích dẫn thơ:

2. Thân bài:

* Tám câu thơ cuối: Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng

- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại

- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”

→ Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi

- Nghệ thuật đối lập: quá khứ >< hiện tại

→ Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.

- Các hành động

+ Nhận mình là "người phụ bạc"

+ Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu

+ Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý

* Tóm lại: 8 câu cuối đoạn

- Nội dung: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của mình và Kim Trọng.

- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.

3. Kết bài:

- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân: Đây là trích đoạn hay và cảm động nhất của Truyện Kiều, đem lại nhiều xúc cảm nơi người đọc.

Sơ đồ Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên

Phân tích 8 câu cuối trong đoạn trích Trao duyên

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 2

Trao duyên cho em, nỗi đau này ai có thể thấu cho nàng Kiều. Sau giây phút vô cùng đau đớn, Kiều rơi vào nỗi đau khổ và tuyệt vọng đến cùng cực, nàng nghĩ về Kim Trọng và càng đau xót hơn, nỗi đau đó được thể hiện trong tám câu thơ cuối trong đoạn trích: “Trao duyên”.

Trong tột cùng nỗi đau khổ và tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng. Với nàng Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, hy vọng, là niềm an ủi, chia sẻ với nàng mọi điều. Tuy nhiên, Kim Trọng lại đang ở cách nàng rất xa, bởi thế cuộc đối thoại này với Kim Trọng chỉ là trong tưởng tượng. Nàng cất lên lời than vô cùng chua xót, đau đớn trước thực tại phũ phàng:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!"

Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan nát trong trái tim Thúy Kiều. Tình yêu với của nàng với Kim Trọng ngày một nâng lên, ngày càng tha thiết thì nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng mạnh mẽ, càng đớn đau hơn. Lời nàng tạ tội của nàng thật thương tâm: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Kiều cất lên lời oán trách số phận, trách sự vô tình, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận éo le, mỏng manh, bạc bẽo của bản thân.

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Dường như lúc này đây tình cảm của nàng đã lấn át cả lý trí. “Phận bạc” ở đây được sử dụng như một lời nói lên án cả xã hội phong kiến. Nhưng dù như vậy nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Số phận nàng ta cũng bắt gặp trong rất nhiều tác phẩm như nàng Vũ Nương bất hạnh bị chồng ruồng rẫy phải tự vẫn để minh oan, hay những người con gái được phản ánh trong các câu ca dao:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Câu thơ cho thấy thân phận nhỏ bé hơn bao giờ hết của nàng Kiều. Hơn thế nữa, câu thơ cũng là lời dự cảm, một lời lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu trưng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là nàng Kiều nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, vô định, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu về đâu. Nỗi đau trào dâng, bao nhiêu tình cảm dồn nén choán đầy cả tâm trí. Bởi vậy, nàng thốt lên lời xin lỗi đầy đau đớn với Kim Trọng:

Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Có lẽ rằng đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” tha thiết như thế. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần dường như bao nhiêu tình cảm chất chứa đều được thốt lên qua tiếng gọi người yêu đầy tha thiết của nàng. Kiều vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau đoạn đối thoại với Kim Trọng nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng không thể tiếp tục chịu đựng hơn được nữa, Kiều đã ngất đi:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng

Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì lại không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong trái tim Kiều vì thế chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, ngôn ngữ độc thoại đã cho thấy nỗi đau đớn đến tột cùng của Thúy Kiều. Nhưng đồng thời qua những câu thơ ngắn ngủi đã cho thấy tình cảm và nhân cách đẹp đẽ của nàng, dù rơi vào đau khổ tuyệt vọng đến cùng cực nhưng nàng vẫn luôn lo nghĩ cho người khác mà quên đi nỗi đau của bản thân.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 3

Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.

Dù có quay về quá khứ hãy hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng."

Hàng loạt những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như "muôn vàn, trăm nghìn" thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.

Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

"Ôi Kim lang hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ "ôi, hỡi" khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.

Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.

Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích "Trao duyên" đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 4

Trong giây phút ấy, Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi. Kiều đang sống mà cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình mà không biết đang nói với ai, lúc này, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể khiến Kiều vô cùng tuyệt vọng:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!"

Lời đối thoại có sự chuyển hướng: Đang nói với em Vân, Kiều dường như quay sang nói với chàng Kim hay nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân trở thành chàng Kim. Cho nên bao nhiêu tình thương nỗi nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ, nỗi đau khổ thống thiết cho mối tình đầu tan vỡ bỗng tuôn tràn ra. Nhìn lại cái “bây giờ” của Kiều chỉ thấy mất mát. “Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa. Thế nhưng giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả. Hình tượng “Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, “trâm gãy gương tan”. Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.

Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Trước đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết. Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối. Câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi. Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Đó là lời oán trách, lời than oán số phận “bạc như vôi” của mình.Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! Rồi đây số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây. Và lúc đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt. “Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình.Tiếng gọi của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm.Kiều đã gắng gượng đến phút cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến.Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình:”Cạn lời hồn ngất máu sau-Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”

Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ. Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối. Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng dặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn “Trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều. Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 5

Truyện Kiều - một thi phẩm bất hủ của tác giả Nguyễn Du, được viết dựa vào một tác phẩm cổ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống vào đời nhà Thanh, Trung Quốc. Truyện kể về cuộc đời đầy đau thương mất mát của Thuý Kiều, trải qua muôn vàn sóng gió, khổ hạnh, chết đi sống lại,… cuối cùng hạnh phúc cũng mỉm cười với nàng. 8 câu cuối bài thơ đã thể hiện được tất cả nỗi lòng của Kiều.

Thuý Kiều một người con hiếu hạnh, tài đức vẹn toàn. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.

Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”.

Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về:

Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Nỗi day dứt ấy chị vẫn mang theo xuống cửu tuyền. Hôm nay chị trở về thì đã "âm dương cách biệt đôi đường" không thể nói được gì, chỉ xin rảy cho chén nước để oan hồn chị được siêu thoát. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ.

Nhìn lại thực tại, nghĩ đến tình quân nàng nhắn nhủ đôi lời tâm sự, giãi bày:

Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, nói làm sao hết những tình cảm tha thiết, da diết, những kỉ niệm ngọt ngào ân ái ngày xưa đã trao nhau. Thôi thì thiếp đành cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Lời nhắn nhủ vừa mang nỗi tiếc nuối, vừa cam chịu chỉ "có ngần ấy thôi" ít ỏi quá chàng ơi, nhưng không thể nào kéo dài thêm được nữa. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn. Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt.

Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa đau cho kiếp số phũ phàng, chua chát - lời thơ như hờn oán, trách móc than thân trách phận:

Phân sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải là phận người, kiếp người nữa. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Cuộc đời quá cay đắng, bạc bẽo hay xã hội quá bất công, tàn nhẫn với con người tài sắc vẹn toàn như Thuý Kiều. Đành rằng cuộc đời “nước chảy hoa trôi” nhưng cũng có giới hạn thôi chứ sao mà quá bi đát, quá phũ phàng đến vậy. Quay về với thực tại Thuý Kiều như bừng tỉnh, thốt lên:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. "Ôi", "Hỡi" Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhoà, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.

Sự thật ấy làm cho Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” một cách vật vã, đớn đau “đứt từng đoạn ruột”. Điều đó cho ta thấy được tình cảm của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng lớn, vô cùng sâu đậm, chung thuỷ sắc son.

Sự “hi sinh” của Thuý Kiều làm cho người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều làm cho chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 6

Đoạn trích Trao duyên trong Truyện Kiều đã cho thấy bút pháp rất mực tài hoa của Nguyễn Du trong việc khắc họa sâu sắc nội tâm nhân vật. Qua trích đoạn, ta càng thấu hiểu, thương cảm cho cho số phận truân chuyên, bạc mệnh của Thuý Kiều. Tám câu cuối bài thơ là đoạn thơ đầy ấn tượng khi tái hiện đầy xót xa tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều.

Sau khi cậy nhờ em thay mình chắp mối "duyên thừa" cùng Kim Trọng, Thúy Kiều đã đau đớn mà bộc lộ lòng mình. Đó là nỗi tuyệt vọng, khổ đau lên đến tột cùng khi phải buông tay với mối tình đẹp đẽ với chàng Kim.

"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân"

Trạng ngữ xác định thời gian "bây giờ" chỉ thực tại đau đớn mà Kiều đang đối mặt, chịu đựng, đó là nỗi đau khắc sâu vào tâm khảm khi chứng kiến tình duyên tan vỡ, chữ tình chưa hề phai nhạt nhưng vì biến cố mà rơi vào cảnh chia lìa không gì có thể hàn gắn “trâm gãy gương tan”. Tác giả sử dụng khéo léo thành ngữ "trâm gãy gương tan" để ẩn dụ cho mối tình đẹp đẽ nhưng mong manh của Kim- Kiều.

Tình yêu Kiều dành cho Kim càng chân thực, mãnh liệt, lớn lao bao nhiêu thì nỗi đau mà nàng đang gánh chịu lại xót xa bấy nhiêu. Trâm đã gãy, bình đã tan, tình yêu nào có thể chắp vá được nữa, hy vọng gắn kết mối tình xưa cũng không còn. Kiều đau đớn nghĩ về giây phút hạnh phúc "muôn vàn ái ân" của hai người trước đây. Đó là những kỉ niệm thắm thiết, những kí ức nồng đượm mà cả Kim và Kiều có được. Đêm trăng thề nguyện hẹn ước, uống chén rượu hồng hẹn ước trăm năm, thưởng ánh trăng vàng, ngâm thơ, đàn hát,... Tất cả những hạnh phúc lớn lao trước đây đều trở thành dĩ vãng, tan biến trong hư vô khi tình chưa cạn mà buộc phải chia xa.

Tiếc thương cho tình yêu không trọn, nghĩ về Kim Trọng , Kiều trách móc bản thân mình phụ bạc chàng, lời dằn vặt nghẹn lòng cất lên:

"Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi"

Xuyên suốt cuộc đời Kiều qua từng trang thơ của Nguyễn Du ta đều biết Kiều là một người sống tình nghĩa, nàng chưa từng phụ bạc một ai. Hơn nữa, Kiều cũng luôn dành hết những điều tốt đẹp cho người mà mình yêu thương, tin tưởng. Nàng đánh đổi hạnh phúc đời mình để tròn chữ hiếu “phận làm con trước phải đền ơn sinh thành”, không còn cách nào khác nàng đành phụ tấm chân tình cùng mối lương duyên tốt đẹp với Kim Trọng. Trong thâm tâm nàng luôn day dứt và tự trách móc vì cho rằng mình đã bội ước với Kim Trọng. Hành động "trăm nghìn gửi lạy" cùng lời tha thiết, cảm thán "Tơ duyên ngắn ngủi, có ngần ấy thôi" là lời tạ lỗi đầy day dứt, xót xa dành cho chàng Kim. Phải là một người yêu thương, trân trọng tình yêu thiêng liêng với Kim Trọng nhiều đến thế nào Kiều mới tự trách móc, dằn vặt chính mình đến như thế?

Sau những tỏ bày gửi chàng Kim là lời Kiều than trách cho phận mình bạc bẽo, sự tự ý thức về thân phận mình đã cho thấy Kiều là một người thấu hiểu lẽ đời, đó cũng là một dự cảm của nàng về tương lai không mấy êm ả trong cuộc đời mình:

"Phận sao phận bạc như vôi.
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

Lời kêu than đầy uất ức về nỗi đau thân phận như một biểu hiện đầy tự nhiên khi nỗi xót xa lên đến đỉnh điểm trong Kiều. Các thành ngữ "bạc như vôi", "nước chảy hoa trôi" như một lời thở than, trách móc uất nghẹn của Kiều trước cuộc đời bất công, trước một xã hội tàn nhẫn đã đẩy nàng vào bế tắc, khổ đau, tuyệt vọng. Chấp nhận "đã dành" cho "nước chảy hoa trôi" cũng là sự cam chịu, là biểu hiện về đức hi sinh của người con gái trước những sóng gió cuộc đời. Và phải chăng, điều đó như báo hiệu một tương lai mờ mịt, một số phận bạc mệnh của nàng.

Hai tiếng "Kim Lang" tha thiết chứa chan biết bao yêu thương, trân trọng mà Kiều dành cho Kim Trọng. Điệp ngữ "Kim Lang" kết hợp với thán từ "Ôi", " Hỡi" cùng nhịp thơ 3/3 như tiếng gào thét tâm can của Kiều. Từng tiếng thơ thốt lên nghẹn ngào, đau xót, đượm màu nước mắt, nhuốm vị thương đau. Lời từ biệt cuối của người con gái thủy chung, trọng nghĩa trọng tình ấy mang cả nỗi luyến tiếc, đớn đau đến tận cùng:

“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Tám câu thơ cuối trích đoạn tuy không dài nhưng ta vẫn cảm nhận được bao phẩm chất tốt đẹp nơi Kiều. Đó là lòng chung thuỷ, nhân ái, là sự ý thức thân phận và một trái tim khát khao hạnh phúc sâu thẳm trong Kiều. Qua tám câu thơ, giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm cũng được thể hiện rõ. Đó là lời lên án xã hội phong kiến đầy bất công đã đẩy con người vào những bi kịch đớn đau. Là tiếng nói thương cảm trước những số phận bạc mệnh như Kiều và bày tỏ niềm trân trọng trước những phẩm chất, tình cảm tốt đẹp của con người trong xã hội. Mặt khác, thành công về nghệ thuật cũng là một điểm nhấn đầy ấn tượng trong đoạn thơ. Đó là bút pháp miêu tả nội tâm tính tế, nghệ thuật độc thoại nội tâm, so sánh, ẩn dụ, sử dụng kết hợp các thành ngữ dân gian cùng thề thể thơ lục bát quen thuộc tất cả đã làm nên một đoạn thơ đầy trọn vẹn và ý nghĩa.

Trao duyên nói chung và tám câu cuối trích đoạn nói riêng đã góp phần mình vào sự thành công của tuyệt tác Truyện Kiều. Tin rằng, trong tương lai, Trao duyên cùng với Truyện Kiều sẽ vẹn nguyên giá trị lâu bền, được bao thế hệ đọc giả trân trọng và giữ gìn.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 7

Trao Duyên là một trong những đoạn trích cảm động, đau thương nhất trong Truyện Kiều, ở đó Nguyễn Du đã thể hiện khả năng nắm bắt tâm lí nhân vật tài tình, đồng thời thấy được bi kịch tình yêu, bi kịch nỗi đau tâm hồn đầy giằng xé của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đặc biệt là 8 câu thơ cuối.

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

Sự thức tỉnh của Thúy Kiều về nỗi đau của đời mình, để thấm thía hơn hiện thực mối tình đẹp đẽ sâu nặng tha thiết với chàng Kim giờ chỉ đành bỏ ngỏ, không thể tái hồi, dẫu có ghép lại thì cũng không còn được như xưa. “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, đối lập giữa cái bây giờ và cái bao giờ. Cái bây giờ là hiện tại đớn đau, cái bao giờ là mảnh tình một thuở muôn vàn ái ân. Hạnh phúc với Kiều lúc này chỉ là một tương lai mờ mịt xa xăm chỉ có thể cảm thấy mà không nhìn thấy.

“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

“hồng nhan bạc mệnh”, câu nói ấy dường như ám cả vào nàng, vào cuộc đời nàng, suốt đời ôm lấy kiếp long đong. Chính xã hội phong kiến kim tiền giả dối, thối nát và tàn ác đã đẩy Kiểu đến bước đường cùng đầy đau đớn này, nhưng dù như vậy phận nữ nhi thường tình, nàng còn có thể làm gì hơn được nữa, nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Câu thơ như lời đối thoại, mà cũng như lời độc thoại đớn đau đến tột cùng, Kiều than cho số kiệp bạc bẽo, thân phận bèo bọt của mình, cũng giống như biết bao nhiêu kiếp hồng nhan bạc mệnh khác bị cuống vào guồng quay oan nghiệt của xã hội phong kiến. Câu thơ vang lên nặng nề, ai oán như một lời nghi vấn nghìn năm thiên cổ, như thay cho tiếng nói của biết bao số kiếp bạc mệnh khác.

Nhưng trong đỉnh điểm của nỗi đau riêng lắng của mình, Kiều lại nghĩ đến chàng Kim. Tên Kim Trọng vang lên lúc này, như một tiếng kêu thương của một người đang chới với trước bờ vực thẳm của đời mình:

"Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Sự thực là có một Thúy Kiều đã chết, đó là cái chết trong tâm hồn,cái chết của mối tình đầu chưa trọn vẹn suốt 15 năm lưu lạc mãi vẫn tan nát cõi lòng. Rõ ràng trong đau đớn Kiều vẫn hướng về Kim Trọng, vẫn một lòng thủy chung son sắt với chàng, thế nhưng nàng vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau những dòng tâm tư quằn quại, nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng, thể xác mệt nhọc, tâm hồn, trái tim tan nát, Kiều dường như không thể trụ vững được nữa:

“Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng"

Trong tột cùng của nỗi đau, ta vẫn thấy tỏa sáng một tình yêu cao đẹp, đẹp đến đau thương, bi thương cho số kiếp nàng Kiều , “hồn ngất máu say”, “hơi lạnh ngắt”, tất cả những cách diễn đạt như ghim những khắc khoải vào lòng người đó, đã trở thành niềm đau đáu tâm can, làm cồn lên những dày xé bất tận trong lòng người đọc về cái kết quá đỗi bi thương, cũng vì một trái tim yêu quá sâu nặng, tha thiết đến quặn thắt của Kiều. Với nàng, tình yêu cho chàng Kim là lẽ sống, bây giờ lẽ sống ấy đã không còn, sự thực chẳng khác nào, sống không bằng chết.

Nếu không có một trái tim đồng cảm với nàng kiều, sao Nguyễn Du có thể viết những câu thơ như rỉ máu đầu ngọn bút như thế, trang văn, từng nhịp thơ, lời thơ như tiếng lòng gào thét, cũng đầy uất nghẹn, bế tắc của Thúy Kiều. Đó thực sự là sự đồng điệu đến từng điệu hồn tế vi nhất của tác giả và nhân vật.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 8

Mối tình Kim - Kiều buổi ban đầu ngỡ sẽ nên duyên đẹp, nhưng số phận đưa đẩy, để cứu cha và em mình, Kiều buộc phải bán thân. Lời hẹn thề cùng vật đính ước, Kiều đánh ngậm ngùi gửi trao cho em gái Thúy Vân. Tình cảm và lý trí mâu thuẫn, Kiểu vừa đau, vừa xót, vừa thương. Đoạn trích Trao duyên đã thể hiện rất rõ tâm trạng ấy của nàng Kiều, đặc biệt, đọc 8 câu cuối đoạn trích ta khóc khỏi xót xa trước những lời thấu tâm can của Kiều:

"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kế làm sao xiết muôn vàn ái ân.
...
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây."

Lời thề nguyền đêm xưa con đó, vậy mà bây giờ đây tình đôi ta vụn vỡ, chia lìa "trâm gãy, gương tan". Tình yêu đẹp biết bao vậy mà phải chia đôi ai khiến lòng người đau đớn, xót xa. Hơn thế nữa, Kiều là phận gái, lại là người nặng tình nghĩa, thủy chung, nàng càng đau gấp bội. Buộc phải trao duyên cho em là lựa chọn cuối cùng của Kiều dù lòng chẳng đặng, thực tại phũ phàng quá, trái tim nàng, cõi lòng nàng tan nát. Mỗi lời thốt ra như một lời ai oán khóc thương cho phận mình, cho cuộc tình mình:

"Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng"

Những thành ngữ "phận bạc như vôi" "nước chảy hoa trôi" được tác giả vận dụng vào thơ để đặc tả thân phận bạc bẽo, chìm nổi, lênh đênh của nàng Kiều. Xã hội bất công, lòng người gian dối đã đọa đày nàng vào chỗ tối tăm, đây tình yêu nàng vào cuộc tơ duyên "ngắn ngủi". Trước sự phũ phàng của số phận, nàng dù rất muốn nhưng chẳng thể nào đấu tranh, đành ngậm ngùi chấp nhận "Đã đánh nước chảy hoa trôi lỡ làng".

Thương biết bao số phận lênh đênh của người phụ nữ phong kiến, cuộc đời may rủi không do mình chọn lựa:

"Thân em như trái bần trôi
Gió dập, sóng dồi biết tấp vào đâu".

Thúy Kiều ví mình như hoa giữa dòng, vô định, nhỏ bé, mong lung giữa mênh mông sóng nước. Hoa "lỡ làng" mối duyên đẹp rồi sẽ đi về đâu, có đến được bến bờ hay mãi lênh đênh giữa dòng nước lớn.

Càng nghĩ càng đau đớn, tâm can nàng Kiều nặng trĩu, nàng thương mình một mà thương Kim Trong mười. Nàng thấy bản thân đã phụ lòng kẻ tri âm, Kiều thốt lên lời xin lỗi đẫm nước mắt:

"Ơi !Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Các thán từ ơi, hỡi, kết hợp với hai tiếng Kim Lang nặng lòng tha thiết, dường như bao nhiêu tình cảm dành cho Kim, Kiều đã dồn hết vào trong hai tiếng gọi ấy. Kiều tự nhận lỗi về mình, tự nhận mình là kẻ phụ bạc tấm lòng chàng Kim để rồi đau đớn, cay đắng trào dâng, cồn cào trong trái tim nàng:

"Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Lời xin lỗi cuối cùng đau xót đến nghẹn ngào của Kiều khiến ai cũng phải xót thương. Trước chàng Kim, Kiều không đổ lỗi cho số phận hay hoàn cảnh mà nàng tự nhận lỗi về mình. Điều đó cho thấy được tâm tư và tấm lòng của nàng. Nàng không còn nghĩ đến nỗi đau của mình nữa mà mọi lắng lo đều hướng đến chàng Kim - người nàng vốn vẫn hết mực thương yêu.

8 câu thơ cuối bài là một nốt nhạc trầm sâu lắng của đoạn trích. Kiều thương Kim Trọng bao nhiêu thì người đọc càng thương Kiều bấy nhiêu. Và trên hết, con là sự cảm phục một người con gái có cốt cách cao cả, trọng nghĩa, trọng tình.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 9

Xong xuôi đoạn thơ, thảm kịch càng được đẩy lên cao. Tranh chấp này nối liền tranh chấp khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, quyết tâm trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là dĩ vãng bóng gió và ngày mai mù mịt.

Dù có trở lại dĩ vãng hãy hướng đến ngày mai, rốt cuộc Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:

“Hiện giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ân ái!
Trăm ngàn gửi lạy tình lang,
Tình duyên ngắn ngủi có ngần đấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đành rằng nước chảy hoa trôi lỡ dở”

Hàng loạt những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao thảm kịch người con gái. Đấy là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bèo bọt, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng thâm thúy lúc trước ngày nay nàng vẫn ko thôi khát khao tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có thuộc tính vô biên định như “muôn ngàn, trăm ngàn” trình bày thâm thúy khát vọng về 1 tình yêu tha thiết, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng đấy cũng chính là hiện thực ko gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên cực độ.

Nàng gọi Kim Trọng là tình lang, nàng xót xa cho duyên phận của mình tình duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người bạc tình. Thật âu sầu biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi nhưng nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phcửa ải chăng, 1 lần nữa Nguyễn Du đã trình bày đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong nhưng lắc thì vơi, nhưng mà: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tơ duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là tương tự. Cuối đoạn thơ, dù rằng Kiều đã thổ lộ hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng mà những âu sầu vì tơ duyên đổ vỡ trong tâm não nàng vẫn ko nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đớn đau:

“Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Phcửa ải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng nhưng sau này thi sĩ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao lứa tuổi! Chỉ 1 câu thơ và tên Kim Trọng được gọi tới 2 lần. Những thán từ “ôi, hỡi” khiến câu thơ vang lên như 1 lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối rốt cuộc gửi tới chàng Kim trước khi đi xa. Kiều đã rất quan tâm với chàng Kim thế nhưng giờ đây nàng tự nhận mình là người bạc tình, ko đổ lỗi cho cảnh ngộ nhưng tự nhận hết nghĩa vụ về mình. Nàng đâu còn nghĩ tới nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo âu lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.

Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã trình bày tuyệt vời những diễn biến phức tạp của đối tượng. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng 1 cách điêu luyện và lạ mắt, Nguyễn Du chính là 1 bậc thầy về tiếng nói.

Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng lứa tuổi nay. Đoạn trích “Trao duyên” đã phác họa thành công thảm kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng mà ánh lên đặc sắc 1 nàng Kiều xinh xắn, chân thực với tư cách cao cả. Càng hiểu nàng bao lăm, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều ấy chẳng đáng cảm phục lắm sao.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 10

Trong khoảnh khắc đấy, Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi. Kiều đang sống nhưng cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình nhưng ko biết đang nói với người nào, khi này, Kiều rơi vào tình trạng độc thoại nội tâm. Nỗi xấu số hiện lên thật toàn vẹn, hiện lên trong tưởng tượng nhưng mà rất chi tiết khiến Kiều hết sức thất vọng:

Hiện giờ trâm gãy gương tan
Kể là sao xiết muôn ngàn ân ái!
Trăm ngàn gửi lạy tình lang
Tình duyên ngắn ngủi có ngần đấy thôi!

Lời hội thoại có sự chuyển hướng: Đang nói với em Vân, Kiều nghe đâu quay sang nói với chàng Kim hay nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân biến thành chàng Kim. Cho nên bao lăm tình thương nỗi nhớ, nỗi thương mến ủ ấp, nỗi âu sầu thống thiết cho mối tình đầu đổ vỡ bỗng tuôn tràn ra. Nhìn lại cái “hiện thời” của Kiều chỉ thấy mất mát. “Trâm” và “gương” là biểu trưng của tơ duyên ngày xưa. Thế nhưng mà giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả. Hình tượng “Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tơ duyên đổ vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn ngàn ân ái” tới nỗi “kể làm sao xiết” nhưng giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa hẹn, làm “tình duyên ngắn ngủi”, “trâm gãy gương tan”. Nghẹn ngào, đắng cay, xót xa – bấy nhiêu tâm cảnh đối diện với Kiều.

Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời non nước” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn ngàn tội vạ nên nàng đã gửi lại “trăm ngàn cái lạy” cho “tình lang”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng thắm, si mê, đã cùng nàng thề nguyền trăm 5 bên nhau nhưng rốt cuộc lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Trước đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái bái tạ tội hết sức thống thiết. Trong hoàn cảnh này, Kiều vẫn chẳng thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy ấy đối với Kiều đã hoàn thành mối tình đầu ngắn ngủi, đầy nhớ tiếc. Câu “Tình duyên ngắn ngủi có ngần đấy thôi” Kiều thốt lên sao nhưng thấm đượm vị chua chát, đắng cay của sự chia ly đôi lứa. Tới đây, Kiều mới thấm thía nỗi độc thân và căn số của mình giữa cõi đời bất công:

Phận sao phận bạc như vôi!
Đành rằng nước chảy hoa trôi lỡ dở

Đấy là lời ân oán trách, lời than ân oán căn số “bạc như vôi” của mình.Lời than ân oán của Kiều ko người nào có thể giải đáp được, ấy là 1 lời than ân oán đắng cay, thất vọng, kêu lên chỉ để ân oán trách trời nhưng thôi! Một mai căn số của Kiều sẽ dạt trôi như bông hoa xinh xắn đã “đành trôi” trên dòng nước bẩn thỉu, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ dở, chẳng thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, tức là tuổi thanh xuân trinh bạch và xinh xắn của Kiều đã xong xuôi từ đây. Và khi ấy, trong những khoảnh khắc rốt cuộc của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người tình:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt. “Thôi thôi” cũng là tiếng công nhận sự bạc tình của mình.Tiếng gọi của nàng như 1 tiếng kêu chới với và thất vọng bởi vì ko có phúc đáp.Kiều đã gắng gượng gập tới phút rốt cuộc, lấy cực kỳ mình để thốt lên những tiếng kêu rốt cuộc – tiếng kêu than ân oán, kêu cứu của 1 người nữ giới “tài giỏi bạc phận” trong xã hội phong kiến.Sau tiếng kêu não lòng đấy, Kiều ngất đi, hoàn thành cuộc trao duyên đầy chất trữ tình:”Cạn lời hồn ngất máu sau-1 hơi lạng lẽ đôi tay giá đồng”

Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời trao duyên như nói 1 lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, si mê, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã tay trắng, lứa đôi chia ly, tình yêu đổ vỡ. Trước lúc trao duyên mình là người sống, sau lúc trao duyên mình là hồn oan nơi 9 suối. Bằng tài năng hoàn hảo của mình, Nguyễn Du tưởng tượng rất rõ và trình bày rất thành công căn số thảm kịch, nội tâm rối bời, tâm cảnh âu sầu, dằng dặc, đắng cay, xót xa và thất vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng 1 cách khôn khéo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều giải pháp nghệ thuật phù hợp, liên kết linh hoạt lời kể với lời tình tự, lời độc thoại, ……, khiến cho đoạn “Trao duyên” biến thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều. Và ấy cũng là lý do tại sao Truyện Kiều biến thành bất hủ!

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 11

Trao duyên là 1 trong những đoạn trích cảm động, đau thương nhất trong tuyệt tác Truyện Kiều, ở ấy Nguyễn Du đã trình bày bản lĩnh nắm bắt tâm lí đối tượng tài tình, cùng lúc cho ta thấy được thảm kịch trong tình yêu, thảm kịch nỗi đau về tâm hồn của Thúy Kiều lúc trao duyên cho Thúy Vân, đặc trưng là 8 câu thơ cuối:

“Hiện giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn ngàn ân ái!
Trăm ngàn gửi lạy tình lang,
Tình duyên ngắn ngủi có ngần đấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đành rằng nước chảy hoa trôi lỡ dở.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Nguyễn Du tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Quê cha ở Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng mà ông lại được sinh ra ở Thăng Long nhờ ấy, Nguyễn Du dễ ợt tiếp nhận tinh hoa của nhiều nền văn hóa. Tác giả là con của 1 gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan mập, có truyền thống làm thơ văn và ham mê ca kĩ. Ông sinh ra và to lên trong thời gian lịch sử đầy bất định dữ dội của xã hội phong kiến. Cuộc đời đầy rẫy thảm kịch, Nguyễn Du sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở với anh trai là Nguyễn Khản. Gia đình tan tác, bản thân ông cũng đã từng phiêu bạt “mười 5 gió bụi” ở quê vợ Thái Bình. Nhưng chính những cùng cực, nặng nhọc ấy đã un đúc cho ông vốn sống quý giá và sự am tường thâm thúy vốn văn hóa dân gian. Nguyễn Du làm quan dưới 2 triều Lê và Nguyễn. Ông là vị quan liêm khiết, được quần chúng tin yêu, quý trọng. Sự nghiệp văn chương của ông rất khổng lồ với những tuyệt tác ở nhiều thể loại: thơ chữ Hán, Nguyễn Du có 3 tập gồm Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có 2 tuyệt tác Truyện Kiều và Văn tế thập loại chúng sinh. Đoạn trích Trao duyên diễn ra từ câu 723 tới 756 của Truyện Kiều.

Sau lúc thuyết phục Thúy Vân nhận lời, trao duyên trao kỉ vật và căn dặn em. Kiều đang sống nhưng cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình nhưng ko biết đang nói với người nào, Kiều rơi vào tình trạng độc thoại nội tâm. Nỗi xấu số hiện lên thật rõ khiến Kiều rơi vào cảm giác hết sức thất vọng:

“Hiện giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn ngàn ân ái”

“Trâm gãy gương tan” gợi sự tan vỡ của tình yêu cũng như cõi lòng tan tành của Thúy Kiều. Việc sử dụng hình ảnh ước lệ đạt hiệu quả cao, phê chuẩn hình ảnh đấy tác giả đã cho thấy sự nhận thức thâm thúy của nàng Kiều về thảm kịch ngày nay. Những tháng ngày trong dĩ vãng Kiều đã rất hạnh phúc với Kim Trọng – mối tình đầu đẹp như hoa như mộng, giờ đây chỉ còn lại những đớn đau ko nói thành lời. “Trâm” và “gương” là 2 hình ảnh vốn biểu tượng cho sự xinh xắn của người con gái tới tuổi để mắt tới dung nhan của bản thân. Những gì Kiều trân trọng xưa nay, nâng niu từng tí 1 để mong có 1 ngày ở bên Kim Trọng mãi mãi vậy nhưng chỉ trong giây phút tất cả những mơ ước, hi vọng đã vỡ tan nát. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn ngàn ân ái” nhiều tới nỗi “kể làm sao xiết” vậy nhưng giờ đây lại thất hứa hẹn, Kiều nghẹn ngào, đắng cay, xót xa cho thân phận của mình. Nguyễn Du đã mở ra 2 chiều thời kì ngày nay và dĩ vãng. Quá khứ thì “muôn ngàn ân ái” đầy hạnh phúc khi mà đấy ngày nay thì đầy âu sầu, lỡ dở và bội bạc. Sự đối lập nhấn mạnh, khắc sâu thảm kịch, nỗi đau của Kiều, càng nhớ tiếc dĩ vãng xinh xắn bao lăm thì thực tại càng bẽ bàng, hụt hẫng bấy nhiêu.

Mọi chuyện hiện thời đã lỡ, Kiều chẳng thể khiến cho mọi thứ trở về bình an như xưa cũ nhưng chỉ tìm cách khích lệ, xoa dịu bản thân mình cũng như người tình:

“Trăm ngàn gửi lạy tình lang
Tình duyên ngắn ngủi có ngần đấy thôi!”

Lời nhận tội của nàng thật đáng thương, khổ thân. Trăm ngàn cái lạy cho “tình lang” – người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu tha thiết, nồng thắm, si mê, đã cùng nhau thề nguyền trăm 5 bên nhau vậy nhưng rốt cuộc nàng lại phản bội. Trước ấy nàng đã “lạy” em của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Nhưng cái “lạy” lần này là cái lạy mang ơn, là cái bái tạ tội hết sức thống thiết. Trong hoàn cảnh này, Kiều vẫn chẳng thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy ấy đối với Kiều đã hoàn thành mối tình đầu ngắn ngủi, đầy nhớ tiếc. “Tình duyên ngắn ngủi có ngần đấy thôi” Kiều thốt lên sao nhưng thấm đượm vị chua chát, đắng cay của sự chia ly. Tới đây, Kiều mới thấm thía nỗi độc thân và căn số của mình giữa cõi đời bất công. Kiều cất lên lời ân oán trách sự vô tình, hà khắc của cuộc đời, than vãn cho căn số trớ trêu, bội bạc của mình chẳng thể giữ nổi hạnh phúc:

“Phận sao phận bạc như vôi!
Đành rằng nước chảy hoa trôi lỡ dở”

“Phận bạc như vôi” là căn số hẩm hiu, bội bạc. Đấy là lời ân oán trách, lời than ân oán căn số của Kiều nhưng ko người nào có thể thấu hết được, là 1 lời than ân oán đắng cay, thất vọng. Một mai căn số của Kiều sẽ dạt trôi như bông hoa xinh xắn đã “đành trôi” trên dòng nước bẩn thỉu, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ dở, chẳng thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, tức là tuổi thanh xuân trinh bạch của Kiều đã xong xuôi từ đây. Trước lúc thán oan, nàng bằng lòng cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì đã phản bội lời thề nguyền. Cuộc đời quá đắng cay hay xã hội quá bất công, tàn nhẫn với con người tài sắc toàn vẹn như Thuý Kiều. Đã đành cuộc đời “nước chảy hoa trôi” nhưng mà cũng có giới hạn thôi chứ sao nhưng ai oán quá, phũ phàng quá. Kiều quên đi nỗi đau của mình nhưng nghĩ nhiều tới người khác, ấy chính là đức hy sinh cao quý. Chính Kiều là người nhận thức được rõ nhất về cuộc đời mình, thành ra nỗi đau càng thêm xót xa.

Trong cực điểm của nỗi đau riêng đang cào xé trong tim mình, Kiều lại nghĩ tới chàng Kim. Tên Kim Trọng vang lên khi này như 1 tiếng kêu đáng thương của 1 người đang chới với trước bờ vực thẳm của đời mình:

“Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Nhịp thơ 3/3, 2/4/2 vừa da diết vừa nghẹn ngào như những tiếng nấc ko thành tiếng. Thán từ “Ôi, hỡi” là những tiếng kêu đớn đau, thất vọng của Kiều. Hai lần đề cập Kim Lang cho thấy sự tức tưởi, nghẹn ngào, đớn đau tới mê sảng. Sự đớn đau của Kiều được đẩy lên cực điểm, tình cảm hiện thời lấn lướt cả lí trí. Nàng chẳng thể nghĩ được gì nữa chỉ biết kêu tên người tình trong nỗi đớn đau tới khốn cùng. Sự thực khiến cho Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” 1 cách vật vã, đau đớn đứt từng đoạn ruột. Điều ấy cho ta thấy được tình cảm của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng hết sức to, hết sức sâu đậm, chung thuỷ sắc son.

Bằng nghệ thuật khắc họa tâm lí đối tượng, sử dụng các từ ngữ tinh tế, đắt giá, các thành ngữ giàu sức gợi cộng với việc sử dụng các thủ pháp ẩn dụ, so sánh, liệt kê, đối lập Nguyễn Du đã trình bày rất thành công căn số thảm kịch, nội tâm rối bời, tâm cảnh âu sầu, đắng cay, xót xa và thất vọng trong cuộc trao duyên của Thúy Kiều. Bằng tài năng của mình tác giả đã khiến cho đoạn “Trao duyên” biến thành đoạn thơ ai oán nhất trong Truyện Kiều, ấy cũng là lý do Truyện Kiều vẫn còn nguyên trị giá dù đã trải qua khoảng thời kì rất lâu rồi.

Phân tích 8 câu cuối bài Trao duyên - mẫu 12

Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn trong “truyện kiều” nhưng “trao duyên” đã thể hiện thành công vẻ đẹp của nhân vật thuý kiều và tài năng sáng tạo của thiên tài nguyễn du. Đoạn trích là tiếng nói tâm hồn của Joe về hoàn cảnh éo le của gia đình, số phận và mối tình đầu đẹp đẽ. Đặc biệt khi thể hiện nỗi xót xa của kiều nữ trước số phận với Tấn, Nguyễn Du đã để lại ấn tượng sâu sắc trong 8 đoạn cuối của đoạn trích:

“Trâm đã gãy mà gương đã vỡ, sao có thể nặn được nhiều tình như vậy! Trăm vạn tình quân, chỉ biết bao nhiêu tình thoáng qua! Sao mệnh bạc như đá!” ! Ôi, kim lang! Dừng lại, tôi đã giúp bạn! “

Khi đọc 8 câu cuối hoặc toàn bộ đoạn trích của bài, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả và tác phẩm.

Nguyễn Du (s. 1765-d. 1820) còn được biết đến với tên chữ tử là, hiệu. Bày tỏ niềm tự hào về Nguyễn Du, độc giả mọi lứa tuổi đã ca ngợi đại thi hào có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà.

Nguyễn Du là người con của Hà Tĩnh – mảnh đất này đã ươm mầm biết bao nhân tài cho đất nước, Nguyễn Du nổi tiếng với những tác phẩm thơ chữ Hán và danh từ. Về thơ chữ Hán, ông có những tập thơ nổi tiếng như: “Thanh xuân khúc dạo đầu”, “Nam cung đàn ngâm”, “Bắc Kinh tháp ký”. Về chữ nôm, bạn có thể tham khảo một số tác phẩm như: “Hải ngoại truyện”, “Thập loại nhân văn”, “Thác ngôn cậu bé đội nón lá”…

Sở dĩ bà đạt được thành tựu rực rỡ như vậy trong sự nghiệp sáng tác của mình là do Nguyễn Du đã dùng cuộc sống của mình để phản ánh điều đó trong các tác phẩm của mình, không chỉ vậy, nhà thơ còn thể hiện một tấm lòng nhân hậu vĩ đại. Thực ra, các tác phẩm chữ Hán của ông là những dòng tự sự về cuộc đời đầy sóng gió và bi kịch của chính ông: những thăng trầm dữ dội của một thời đại lịch sử từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ này. xix dẫn đến cuộc sống không nhà cửa trong cuộc sống gia đình.

Trong xã hội ấy, Nguyễn Du được tận mắt chứng kiến những vết nhơ của cuộc đời qua hình ảnh thân phận bé nhỏ của mình bị những thế lực đen tối của xã hội áp bức dã man. Nhìn chung, người đọc có thể cảm nhận được sự chân thành của Nguyễn Du đối với cuộc sống không chỉ thể hiện rõ trong các tác phẩm chữ Hán mà còn trong tất cả các tác phẩm của Nguyễn Du.

Ông phản ánh hiện thực, nhưng chủ yếu là đồng cảm và chia sẻ với những người đang sống trong đau khổ triền miên. Trong số những nhân vật mà Nguyễn Du thường viết, ông quan tâm đến những người phụ nữ sống bằng nghề ca hát và phải đem hết tài năng của mình để lấy lòng người. Và không thể không nhắc đến thành công lớn của Nguyễn Du trong các tác phẩm của ông, đó là việc ông đã vượt qua định kiến của xã hội phong kiến một cách đáng kinh ngạc và vươn tới khẳng định giá trị cao đẹp của con người.

Đó là một đoạn trích từ “Tiếng Trung Quốc ở nước ngoài”, và “Sự quyến rũ thay đổi” có tổng cộng 34 phần. Đây là các câu từ 723 đến 756 của kiệt tác này. Đoạn trích hướng người đọc đến với nhân vật trung tâm là Thôi Kiều trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt: Sau khi gia đình bị phỉ báng, Kiều phải bán mình làm thư sinh để chuộc cha.

Đêm hôm trước nàng phải xa gia đình theo phường bán hương, thay vào đó, Kiều được em gái là Thuý Vân trả cho kim trong, phần còn lại của đoạn trích là Thuý Kiều nghĩ về đời mình và nghĩ về kim. cảm xúc khi trong.

Sau khi nói với em gái, Kiều nhìn lại cuộc đời và đau đớn nhận ra một sự thật phũ phàng rằng hiện tại và quá khứ có sự đối lập đau đớn:

“Bây giờ trâm bể gương bể, làm sao vắt ra được bao nhiêu tình!”

Cảm nhận 8 câu cuối của bài Tình tứ, ta thấy ở những câu thơ trên, việc Nguyễn Du sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương vỡ” đã mang lại hiệu quả biểu đạt rất cao. Qua hình ảnh đó, tác giả thể hiện nhận thức sâu sắc của mình về thảm trạng hiện nay. So với trước đây, Qiao cảm thấy bàng hoàng và cay đắng – hạnh phúc của mối tình đầu trong những năm tháng của Yue Qiao giống như hoa và mộng, nhưng bây giờ tất cả chỉ còn lại là nỗi đau và sự tiếc nuối, bao nhiêu lời hứa đẹp đẽ đều trở nên vô nghĩa.

“Trâm cài áo” và “tấm gương soi” là hình ảnh đẹp đẽ của khuôn mặt thiếu nữ khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng điều cô nâng niu, trân trọng chính là mong chờ một ngày nào đó có thể ấp ủ mãi mãi ở bên cạnh nhau (để có thể hoàn thành lời thề mà cô và người mình yêu đã từng hẹn ước, từ giây phút “từ khi ta gặp nhau”. Jin)-“Khi nào ngày quạt đêm thề”) Thình lình, tai họa ập đến, mọi ý nghĩ đều tiêu tan.

Với sự hiện diện của thuý kiều và kim trong, “muôn vàn tình yêu” không thể đo đếm được trong miền kí ức thơ mà nàng nhắc đến ở câu thơ sau, so với nỗi khổ mà nàng vừa kể ở câu thơ trước, nó càng tăng thêm sự tương phản. Khi cảm nhận 8 dòng cuối của câu chuyện tình yêu, chúng ta thấy rằng khi nhìn vào hoàn cảnh của Jo, chúng ta có thể thấy những gì cô ấy đã phải chịu đựng trong thời niên thiếu và lẽ ra vẫn được sống trong vòng tay yêu thương, che chở của cha mẹ. Tôi yêu cô ấy hơn bao giờ hết.

Không chỉ bản thân Kiều mà ngay cả người đọc cũng không khỏi lo lắng, hoang mang cho những tháng ngày sắp tới mà Kiều sẽ phải vượt qua. Hiện thực so với trước đây đã lâu, cho dù đau khổ cùng nước mắt, người tán loạn cũng không cách nào trở lại trước kia yên bình trạng thái, chỉ có thể tiếc nuối tìm đường bình tĩnh lại. An ủi, động viên mình và người yêu:

“Hàng ngàn người đã khuất phục trước tình yêu thoáng qua này!”

Khi nói ra điều này, Joe trân trọng thừa nhận rằng tình yêu giữa anh và Joe dù đẹp đến đâu cũng chỉ là một kỉ niệm ngắn ngủi. Cảm nhận 8 dòng cuối của câu chuyện ngôn tình, ta cũng thấy tuy trông cậy vào bạn “cho máu thay nước” để giúp nàng luôn quyến rũ nhưng nàng kiều cũng thật lòng khi xin nàng “ngồi dậy” để nàng có thể “lạy”’, và giờ đây, một lần nữa, kiều gửi lời xin lỗi “lạy” đến kim, người rất có ý nghĩa với nàng. Lời nói và việc làm của Kiều được thể hiện trong thơ ca khiến cho tác phẩm của Nguyễn Du là hình ảnh một cô gái trẻ nặng trĩu tình nhưng không có cách nào vãn hồi được tình yêu của mình.

Cảm nhận 8 dòng cuối của hai bài thơ tình tiếp theo, Nguyễn Du như trút bầu tâm sự của mình với kiều bào, tạo cơ hội cho bản thân mình:

“Sao số phận như đá bạc, đành để nước trôi hoa trôi làng”

Có lẽ từ lúc bắt đầu “lễ tình yêu” đến lúc nước mắt lăn dài trên mặt, Jiao Er đã rất cố gắng nhẫn nhịn, và nói những điều mình muốn nói một cách bình tĩnh nhất có thể. Cho đến khi cô ấy chấp nhận rằng mong muốn trả giá cho Jin Zhong của em gái mình có thể được thực hiện, và sau đó cô ấy cẩn thận thuyết phục Cui Wen, Cui Qiao cho phép mình đồng cảm với cô ấy một cách chân thành và tự nhiên nhất.

Khi cảm nhận 8 câu cuối của bài, ta cũng thấy nàng kiều biết một điều, số phận nàng cũng chẳng khác gì Bạch Ngân. Trước kia Kiều sống yên ổn ở nhà, Kiều không bao giờ có thể tưởng tượng được cảnh tượng ảm đạm như ngày hôm nay. Nhưng thú thực, ngay cả trong trí tưởng tượng của mình, Kiều cũng không thể ngờ rằng những đau khổ nghiệt ngã ấy lại ập đến với cuộc đời mình nhanh đến thế, nhanh đến nỗi nàng không kịp trải nghiệm cuộc sống để đương đầu.

Sở Kiều đã phải đứng trước sự bàng hoàng và hoang mang tột độ. Để rồi nỗi đau cứ chồng chất mãi trong khi Joe vẫn ý thức được một tương lai đen tối, bất định. Cảm nhận 8 câu cuối của bài ta cũng thấy kiều nghĩ đây là một “Thủy Lưu Hoa Piêu Lí thôn” tương lai. Những năm tháng sắp tới là tăm tối, và có lẽ đối với Kiều, sau khi trải qua những tổn thương đầu tiên trong đời, những gì đọng lại có lẽ chỉ là hình ảnh gia đình, người yêu quý giá, thân thương trong lòng người Việt xa xứ.

Cuối cùng, nỗi đau và sự tuyệt vọng đổ dồn vào tiếng gọi của người yêu, đầy chân thực và đau xé lòng:

“Ôi, Kim Lăng! Ôi, Kim Lăng! Dừng lại, tôi đã giúp bạn!”

Mỗi cuộc gọi của người yêu, chắc hẳn Jo đã lặp đi lặp lại nhiều lần khiến cô đau lòng và tan nát cõi lòng. Những từ ngữ thể hiện nỗi xót xa cứ hiện ra và xâu chuỗi lại với nhau: “thoáng qua,” “lỡ làng,” “dừng lại,” “sóng vàng,” “số phận và số phận” tạo thành một làn sóng xót xa ập lên người cô gái tội nghiệp mà cố gắng nhất cũng không được. làm cô ấy thất vọng.

Tuy nhiên, có lẽ sức người là có hạn, dù cố gắng đến đâu cũng không thể che giấu được những tổn thương mà mình phải gánh chịu. Bởi vậy, cố gắng cuối cùng của sự đấu tranh là một lời kêu gọi trang trọng, để rồi chị nhận lỗi và trân trọng nói lời chia tay, đó cũng là lời tự trách mình trong nỗi day dứt, dằn vặt.

Khi cảm nhận 8 câu cuối của bài, người đọc còn nhận thấy tiếng cảm thán xen lẫn tiếng nức nở thể hiện tình yêu thương nhưng nhiều hơn là sự xót xa cho Kim. Trong sự tan vỡ tình yêu của cả hai, Cố Hải nhận hết mọi trách nhiệm và lỗi lầm về mình, tự cho mình là kẻ lừa dối. Thực tế, cô đã lấy hết can đảm để nói ra lời tỏ tình đi kèm với vẻ đẹp đáng kính của mình.

Đây là vẻ đẹp của một cô gái rất cao quý trong tình yêu, mặc dù bị hoàn cảnh ép buộc, cô ấy đã theo đuổi đến cùng và đưa ra quyết định quá đau đớn là bán thân. Cảm nhận 8 dòng cuối của thiên truyện, ta thấy rằng Kiều vẫn tự cho mình là kẻ đáng bị phê phán, vì đã phản bội mối tình đầu, mối tình sâu nặng. Đó là một đức tính đáng quý ở cô ấy khiến tôi càng yêu cô ấy hơn mỗi lần.

Nhìn chung, khi cảm nhận 8 câu cuối của bài, ta thấy Nguyễn Du đã làm nổi bật sự nghiêm túc, trân trọng tình yêu của Thúy Kiều bằng cách “trao tình”. Tương tự như vậy, Nguyễn Du bộc lộ rõ nét vẻ đẹp của trưởng nữ vương gia: nàng vừa là tấm gương đạo đức hiếu thảo, vừa là hình ảnh của một bậc thục nữ. Hãy làm tất cả những gì có thể để thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đến tình yêu đích thực của anh ấy.

Ngoài những điều trên, thông điệp của tác giả có được chuyển tải thành công hay không còn phụ thuộc vào nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã sử dụng hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật giá trị của nhân vật. Ngoài ra, khi cảm nhận 8 câu cuối của bài tình tứ, ta còn thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc lộ tâm tư, tình cảm của mình. Gái hải ngoại.

Như vậy, với nội dung và ý nghĩa giá trị nghệ thuật trên, đoạn trích Trao duyên, đặc biệt là 8 đoạn cuối của đoạn trích đã giúp người đọc đồng cảm và thấu hiểu nỗi lòng của nhân vật thuý kiều si tình. của một người phụ nữ tài năng nhưng bị sự tàn ác dồn ép đến đường cùng. Tuy nhiên, phải công nhận rằng dù trong hoàn cảnh dị thường, nguy hiểm đến đâu, họ vẫn toát lên vẻ đẹp đáng quý.

Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:


Giải bài tập lớp 10 sách mới các môn học