Top 20 phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ

Tổng hợp trên 20 bài văn phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ - mẫu 1

Nhắc tới nhà văn Sơn Tùng, chúng ta sẽ nhớ ngay tới cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Búp sen xanh". Tác phẩm đã đem đến cho bạn đọc những hình dung cụ thể, chân thực về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh từ thời niên thiếu tới tuổi trưởng thành. Đặc biệt, đến với đoạn trích "Dọc đường xứ Nghệ", ta sẽ thấy được một cậu bé Côn ham học, thích tìm hiểu.

Trên đường đi, cậu bé Côn luôn chú ý quan sát vạn vật xung quanh. Trong đôi mắt trẻ thơ của Côn, quê hương hiện lên với "những ngôi đền cổ kính", với "dãy núi xa xa rất nhiều hình nhiều vẻ". Ngắm nhìn các di tích, cảnh sắc ấy, Côn không khỏi tò mò, thắc mắc. Vì thế, cậu bé đã mạnh dạn hỏi cha về các sự tích gắn liền với chúng "Thưa cha, con muốn được cha chỉ bảo chúng con về sự tích ngôi đền ni, về tên của các hòn núi kia, trông lạ mắt quá cha ạ.". Có thể thấy, Côn là một người ham học hỏi, thích tìm hiểu mọi thứ xung quanh. Đứng trước những điều mới lạ, cậu luôn muốn tìm tòi, khám phá sâu rộng. Côn khao khát được hiểu hơn về cuộc sống, về cội nguồn dân tộc. Như vậy, ngay từ thơ bé, cậu bé Côn đã rèn luyện và bồi đắp cho bản thân một tinh thần ham học đáng ngưỡng mộ.

Bên cạnh đó, Côn còn là cậu bé có suy nghĩ chín chắn, thấu đáo. Sau khi nghe cha kể xong chuyện "Mỵ Châu - Trọng Thủy", cậu bé đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của mình về các nhân vật. Côn phê phán việc vua Thục "không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu". Nhưng đồng thời, cậu bé cũng coi trọng hành động của An Dương Vương ở cuối câu chuyện. Có thể thấy, dù tuổi còn nhỏ nhưng Côn đã có những lí giải, phân tích hết sức chín chắn. Đặc biệt, giây phút đứng trước mộ Nguyễn Du, Côn cảm thấy vô cùng chạnh lòng, xót xa mà nhớ đến mấy câu thơ "...Rằng sao trong tiết Thanh minh/ Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?...". Cậu bé luôn thắc mắc, hoài nghi tại sao thằng trộm bị đánh chết được lập đền thờ còn Nguyễn Du công lao to lớn lại không.

Với việc sử dụng ngôi kể thứ ba, người đọc đã có cái nhìn khách quan, cụ thể về câu chuyện và nhân vật Côn. Ngoài ra, tác giả Sơn Tùng còn xây dựng thành công nhân vật qua lời nói, suy nghĩ. Từ đây, Côn hiện lên thật sắc nét với bao phẩm chất tốt đẹp, đáng ngưỡng mộ. Không chỉ vậy, các từ ngữ địa phương "ni", "dớ dận" cũng làm câu chuyện trở nên gần gũi, thân quen.

Nhân vật Côn quả là một cậu bé điềm đạm, thông minh, yêu thích học hỏi. Theo dòng thời gian, những câu chuyện gắn liền với Người như "Dọc đường xứ Nghệ" nói riêng và "Búp sen xanh" nói chung sẽ mãi in sâu trong tâm trí dân tộc Việt Nam. Cảm ơn nhà văn Sơn Tùng đã mang đến một tác phẩm giàu giá trị như vậy.

Dàn ý Phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ

1. Mở bài:

- Giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích.

- Nêu cảm xúc chung về nhân vật.

2. Thân bài:

* Phân tích đặc điểm nhân vật:

- Côn là một cậu bé ham học hỏi, thích tìm hiểu mọi thứ xung quanh:

+ Khi thấy ngôi đền và ngọn núi, cậu bé Côn đã hỏi cha về các sự tích gắn liền với chúng.

- Côn còn là cậu bé có suy nghĩ chín chắn, thấu đáo:

+ Sau khi nghe cha kể xong chuyện "Mỵ Châu - Trọng Thủy", cậu bé đã bày tỏ suy nghĩ của mình về các nhân vật.

+ Thắc mắc tại sao Nguyễn Du có công lao lớn nhưng không được lập đền thờ còn thằng ăn trộm bị đánh chết lại có.

* Nhận xét nghệ thuật xây dựng nhân vật:

- Sử dụng ngôi kể thứ ba.

- Khắc họa nhân vật thông qua lời nói, suy nghĩ.

- Sử dụng ngôn ngữ địa phương.

3. Kết bài:

Nêu ấn tượng và đánh giá về nhân vật.

Phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ - mẫu 2

"Dọc đường xứ Nghệ" là một trích đoạn tiêu biểu của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng "Búp sen xanh". Đoạn trích đã mang đến cho bạn đọc những hình dung cụ thể về thời niên thiếu của Người khi sống bên gia đình qua nhân vật Côn.

Đầu tiên, khi dừng chân tại vùng đất Diễn Châu, được nghe cha kể về truyền thuyết "Mỵ Châu - Trọng Thủy", cậu bé Côn đã thẳng thắn chỉ ra căn nguyên của mọi việc xung quanh câu chuyện. Với khả năng phân tích, nhìn nhận vấn đề cốt lõi bằng tư duy khách quan, đa chiều, Côn nhận thấy nhà Triệu quá nham hiểm, chàng Trọng Thủy lại ngoan ngoãn làm theo lời cha, nàng Mị Châu thì ruột để ngoài da. Đồng thời, Côn còn thẳng thắn nêu lên hạn chế của vua Thục khi không nhận ra bản chất của kẻ thù, trọng chữ tín mà không đề phòng. Mặc dù vậy, cậu vẫn công tâm khi công nhận cách xử sự của vua An Dương Vương ở cuối truyện.

Tuy nhỏ tuổi nhưng Côn đã có những am hiểu sâu sắc về cuộc sống. Sau khi nghe cha kể xong các sự tích gắn liền với hòn Hai Vai và núi "Tướng quân rơi đầu", Côn không tiếc lời ngợi ca ước mơ chính đáng ở người xưa. Đồng thời, cậu còn thể hiện tấm lòng trân trọng, ngợi ca tài năng và trí tưởng tượng phong phú của các tác giả dân gian.

Ngoài ra, Côn còn là một cậu bé có tâm hồn yêu mến văn thơ và biết đề cao công bằng, tôn trọng lẽ phải. Điều này được khắc họa rõ nét qua chi tiết ba cha con cụ Phó bảng tới thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du. Sau khi chạnh lòng trước cảnh "hương khói vắng tanh" nơi đại thi hào yên nghỉ, Côn đã không khỏi thắc mắc vì sao Nguyễn Du lại không được lập đền thờ như thằng ăn trộm bị đánh chết.

Để làm nổi bật nhân vật cậu bé Côn, tác giả đã có những sáng tạo về hình thức nghệ thuật. Trước hết, việc sử dụng ngôi kể thứ ba giúp độc giả có cái nhìn toàn diện, chân thực về câu chuyện thời thơ ấu của Người. Tiếp đến, nhà văn còn thành công trong việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói, hành động và suy nghĩ.

Nhân vật Côn trong đoạn trích "Dọc đường xứ Nghệ" hiện lên thật chân thực với vẻ đẹp về nhân cách và tâm hồn. Tuy còn nhỏ tuổi nhưng cậu đã có thể hiểu sâu biết rộng, mang trong mình những suy nghĩ sâu sắc. Mong rằng, các câu chuyện gắn liền với cuộc đời của Người sẽ luôn in sâu trong tâm trí dân tộc Việt Nam.

Phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ - mẫu 3

Ông Nguyễn Sinh Sắc là một kho tàng sống của văn học dân gian xứ Nghệ. Mỗi câu chuyện mỗi địa danh, mỗi nơi đi qua ông đều tỉ mỉ kể cho các con nghe về lịch sử từng vùng, từng miền. Mỗi một câu chuyện lại cho ta thêm hiểu biết về một địa danh của xứ Nghệ. Hiện lên đó là hình ảnh người cha hiền lành, ân cần dạy dỗ từng cử chỉ, hành vi cho con. Với mong muốn các con của mình nên người. Ông cũng âm thầm dạy con rằng:

Dân vạn đại, quan nhất thời

Ghế quan ai ngồi xin chớ thờ ơ

Thương dân, dân lập đền thờ

Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương

Lời nói của Côn khi ngâm nga được ông khẳng định chắc nịch: “Bà ngoại nói không phải để mua vui đâu mà bà dạy cha, dạy những người có học, có chức trọng quyền cao đó con ạ.” Câu vè của đứa trẻ nghe được từ bà đã trở thành kim chỉ nam để ông dạy con, nếu làm quan thì phải thanh liêm bảo vệ dân, thương dân. Ông Nguyễn Sinh Sắc học giỏi, tuy đã ghi danh bảng vàng, vẫn canh cánh trong lòng nỗi đau nước mất nhà tan. Đối với ông, cứu nước chỉ còn con đường “làm quan thanh liêm” để bảo vệ dân. Chính ông đã tiếp bước ươm mầm ra một búp sen xanh cho dân tộc Việt Nam.

Bên cạnh đó, ông cũng là một người cha nghiêm khắc, trước đó ông đã phạt Côn phải xin lỗi anh Khiêm vì đã bất lễ mà nói với anh:

“Côn cáu lại anh: “Anh lắm lời quá!”. Ông Sắc quắc mắt, nghiêm giọng:

- Côn! Vì đang ở trên đường, nếu ở nhà thì cha bắt con nằm xuống đánh mười roi về tội bất đễ. Anh con có nói sai, xử sự sai với con thì đã có cha phân xử, hoặc con phải nói với anh bằng một thái độ lễ phép. Con không được nói với anh câu nói của con nhà vô giáo dục như vậy.”. Rõ ràng ông Phó Bảng rất yêu thương con nhưng không nuông chiều mà luôn tỉ mỉ dạy dỗ. Mong con sẽ thành nhân. Khi con sai ông phạt con, nhưng cũng lí giải cho con hiểu lẽ đúng sai ở đời. Các con của ông đều yêu thương nhau. Anh cả Khiêm rất thương Côn và ngược lại.

- Tri thức là biển cả rộng lớn, những địa danh ông chưa đi qua ông cũng không hề giấu con, câu hỏi của Côn về Cổ Loa ông thành thật mà nói cha cũng chưa từng đi: “- Thành Cổ Loa ở mãi tận đâu, thưa cha?

- Cha chưa đi tới đó, nhưng cha đọc sách thấy xa… xa lắm, con ạ”

Trong cái nôi của một vùng đất giàu bản sắc văn hóa mà truyền thống gia đình là dưỡng chất đầu đời hình thành nên nhân cách lớn, Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất Thành đã sớm được giáo dục chu đáo, không chỉ chữ nghĩa của đạo thánh hiền mà còn là bài học về đạo làm người, về lẽ sống và ứng xử ở đời. Cậu bé Côn thật may mắn khi được sinh ra trong một gia đình Nho học đầy truyền thống. Có một người cha nghiêm khắc dạy dỗ, uốn con thơ từ thuở còn non, bồi đắp nhân cách tình yêu quê hương cho con.

Phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ - mẫu 4

Trong đoạn trích ta có thể thấy được sự ham học của Côn. Tác phẩm đã đưa người đọc trở về thời niên thiếu của Bác Hồ, từ lúc cất tiếng khóc chào đời tại làng Chùa quê ngoại, đến khi rời bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước ở tuổi 20 đầy khát vọng. Trong đoạn trích này tác giả chủ yếu là vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Nghệ qua con mắt nhìn và sự đánh giá của những đứa trẻ. Mỗi di tích mỗi câu chuyện là một góc nhìn của cậu bé Côn. Dưới sự giáo dục tỉ mỉ của người cha Nguyễn Sinh Sắc. Trước đó, Côn đã biết nhận ra lỗi lầm của mình khi nói hỗn với anh và bị cha nhắc nhở:

“Côn đặt chiếc khăn gói trên vai xuống bãi cỏ, khoanh hai tay trước ngực, giọng chân thành:

- Xin anh cả tha lỗi cho em…

Cậu cả Khiêm rơm rớm nước mắt, chạy lại xách tay nải lên:

- Để anh mang đỡ em một đoạn kẻo em mệt đi không kịp cha”. Một chi tiết nhỏ nhưng ta cũng thấy được sự lễ phép ngoan ngoãn của cậu bé. Cậu bé Côn ngay từ nhỏ đã thể hiện được sự thông minh ham học hỏi. Em liên tục thắc mắc và hỏi cha về cảnh vật xung quanh mỗi nơi mình đi qua.

Khi được nghe cha kể về câu chuyện về An Dương Vương, gắn với lông ngỗng mà nàng Mỵ Châu rải đường em đã đánh giá khách quan với cái nhìn đa chiều. Cái nhìn từ góc độ nhân dân. Biết cảm thông cho Mỵ Châu nhẹ dạ, biết thương An Dương Vương mất nước phải trầm mình xuống biển. Côn không giống những cậu bé khác em đánh giá mọi chuyện trong cuộc sống hết sức khách quan đa chiều. Mỗi cái nhìn của em về một sự vật sự việc đều thể hiện tốt chất của một lãnh đạo tài ba trong tương lai. Em không chỉ thấy được sự tài tình của trí tưởng tượng dân gian mà còn giúp ta thấy được cả sự nham hiểm của kẻ thù: “Côn nói, vẻ thán phục:

- Chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thủy ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước ở kè nhau có hòa hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mỵ Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng không khinh được vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước, chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.”

Một người trưởng thành, đủ hiểu biết chưa chắc đã đánh giá được như em… Đánh giá của em khiến người cha (mặc dù đã là cụ Phó Bảng) cũng phải “sững sờ” suy ngẫm.

Khi được cha kể sự tích về vùng Ba Hòn, là đứa trẻ ham học hỏi Côn chỉ chơm chớp mắt nhìn theo. Em đánh giá về câu chuyện như một người trưởng thành, luôn nhìn mọi vật từ góc độ văn hóa dân gian và cái đẹp. Em thốt lên khi nghe xong tích xưa: “Ước vọng của dân ta thật là đẹp. Tưởng tượng của người ta đến là tuyệt! Phải không cha?”. Em đã nhìn ra ước vọng đằng sau suy ngẫm của em về một tạo vật, mỗi danh thắng quê hương và ước vọng của nhân dân.

Khi thấy đền thờ Qủa Sơn to hơn đền thờ An Dương Vương, cậu bé Côn đã suy ngẫm ra triết lí làm quan ở đời. Nếu quan thương dân lo cho dân sẽ được nhân dân đời đời nhớ ơn lập đền thờ phụng. Nếu quan không thương dân chỉ biết vơ vét, hại dân sẽ bị tiếng nhơ muôn đời. Ông Phó Bảng giảng giải cho cậu bé Côn càng hiểu rõ hơn.

Cậu cũng yêu thơ và có tài làm thơ. Cậu thuộc câu vè của bà, thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du và gặp cảnh vật nào cậu có thể ngâm thơ để bình về cảnh vật ấy. Qua đó, ta cũng thấy được ngay từ nhỏ cậu bé Côn đã nhận được sự giáo dục tỉ mỉ của gia đình. Cụ Phó Bảng là một người am hiểu về nhiều góc độ văn hóa, Côn đã lĩnh hội và học hỏi bồi dưỡng nhân cách từ chính vốn văn hóa bình dân gần gũi ấy. Khi được cha giải thích cho con lí do cụ Nguyễn Du lại không được thờ phụng, lại có nơi thờ thằng ăn trộm và khắc rõ chữ “Đạo tặc tối linh tôn thần”. Cậu cũng phát hiện ra thứ phi lí ở đời. Có lẽ, trong xã hội những kẻ trộm cướp, đạo tặc luôn quấy phá xã hội và dân ta thờ phường trộm cướp là để chúng không quấy phá nhiễu loại khi đã chết đi. Nhưng với đầu óc của một đứa trẻ Côn vẫn chưa hiểu hết được những điều ấy.

Dưới ngòi bút của Sơn Tùng, khoảng đời niên thiếu của Bác được tái hiện sinh động bằng những chi tiết cuộc sống thường nhật với nỗi buồn, niềm vui, đắng cay, hiếu thảo, ham học, tò mò… Hình ảnh bé Côn với nét tính cách tinh nghịch, hóm hỉnh, thơ ngây hiển hiện trong đầu bạn đọc. Tuổi thơ của cậu bé Côn vừa được đắm mình trong môi trường quê hương, vừa nhận được sự giáo dục của người cha nghiêm khắc và mực thước. Điều đó góp phần hình thành tính cách tốt đẹp của Côn sau này.

Qua ngòi bút Sơn Tùng, Bác Hồ thời niên thiếu hiện lên với nét thông minh hơn người, bản lĩnh độc đáo nhưng không phải là thần đồng bẩm sinh, mà là quá trình tự rèn luyện, học tập, tu dưỡng, tiếp thu tinh hoa dân tộc.

Phân tích đặc điểm nhân vật Côn trong truyện Dọc đường xứ Nghệ - mẫu 5

Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, vậy nên đối với nền văn học nước ta, cuộc đời và con người của Bác luôn là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận. Trong số đó, không thể không nhắc đến tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được viết từ năm 1948 đến năm 1980. Búp sen xanh không đi xây dựng một thần tượng trong lòng nhân dân mà mang tới những câu chuyện khắc họa đời sống thường ngày giản dị và chân thật về Hồ Chí Minh “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu". Đoạn trích “Dọc đường xứ Nghệ” nằm ở chương đầu có tên Thời thơ ấu của tiểu thuyết Búp sen xanh, theo chân cậu bé Côn thuở nhỏ (chính là Bác Hồ). Đoạn trích kể lại chuyến đi về xứ Nghệ của ba cha con cụ Phó bảng là cụ Nguyễn Sinh Sắc, hai cậu bé Côn (Bác Hồ) và Khiêm (anh trai Bác Hồ). Dọc đường đi đến đâu, ông Phó bảng cũng kể cho hai con nghe về những địa danh lịch sử và những câu chuyện gắn với địa danh đó. Qua lời kể của cha, hai cậu bé thể hiện sự ham học hỏi và đặc biệt là Côn với những lời nhận xét, đánh giá sâu sắc về đất nước, con người nước Nam. 

Ngay từ đầu đoạn trích, theo chân ba cha con cụ Phó bảng về Nghệ An, người đọc đã được chiêm ngưỡng khung cảnh yên bình, đẹp đến vô thực của nước ta, nơi “sông núi mây trời đẹp như bức gấm thêu”. Cha con Côn đi hết dãy núi Cấm, đến Diễn Châu, Côn nhìn thấy một ngôi đền cổ kính sát đường Thiên Lí cùng với những ngọn núi nhiều hình thù theo trí tưởng tượng của cậu. Với sự tò mò không thể kìm nén, Côn đã xin cụ Phó bảng kể về sự tích của ngôi đền và những hòn núi đó. Đây chính là địa danh lịch sử đầu tiên trên con đường về xứ Nghệ mà cụ Sắc giải thích cho các con. Ngôi đền đó gắn với chuyện tình của Mị Châu – Trọng Thủy, vậy là khi ngồi nghỉ ăn cơm nắm, cụ Phó bảng đã kể lại toàn bộ câu chuyện đó cho hai con. Sau khi nghe xong, hai cậu bé đều thích thú và có những cách nhìn nhận khác nhau về câu chuyện. Anh Khiêm có cái nhìn rất thực tế khi đã cảm nhận chuyện là do bịa, vì Mị Châu kiếm đâu được lông ngỗng để trải khắp đường như thế. Còn em Côn lại tiếp tục tò mò hỏi cha thành Cổ Loa ở đâu? Nhưng cụ Sắc cũng chưa đi, cụ chỉ biết nó ở “xa...xa lắm, con ạ”. 

Chưa dừng lại ở đó, tuy còn là một cậu bé nhưng Côn lại có cái nhìn rất sâu sắc về câu chuyện Mị Châu – Trọng Thủy, khiến người đọc không khỏi ngạc nhiên. Cậu bé nhìn ra được sự nham hiểm của vua Triệu, Trọng Thủy thì ngoan ngoãn nghe lời cha, khen vua Thục nước ta biết giữ chữ tin nhưng không biết đề phòng vua Triệu, Mị Châu thì ruột để ngoài da. Và câu chốt lại của Côn là “Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng, không khinh được của vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.” Một đứa trẻ nhỏ tuổi lại có thể có được tầm nhìn xa, trông rộng, biết nhìn ra điểm mạnh, điểm yếu của người khác như vậy thật đáng khâm phục. Sau khi nghe những lời của Côn, cụ Sắc cũng sững người nhìn ngôi đền thờ vua Thục mà dạy hai con “Nước có lúc thịnh, lúc suy. Đó là điều thường thấy trong trời đất. Nhưng con người ta lại phải biết giữ trọn khí tiết. Vua Thục Phán thuộc loại đó”. Rồi cụ Sắc lại tiếp tục giải thích cho hai con về hình hài kì lạ của những hòn núi, gồm ngọn núi giống người cụt đầu gọi là hòn “Hai Vai” hoặc núi “Tướng Quân rơi đầu”, hòn “Trống Thủng”, núi “Cờ Rách”, núi “Mã Phục”. Trước tiên là câu chuyện về vùng Ba Hòn có hòn “Hai Vai”, hòn “Trống Thủng” và núi “Cờ rách”. Chuyện kể rằng khi giặc phương Bắc tràn xuống xâm lược nước ta có một vị Tướng quân ở vùng Nghệ Tĩnh đã mang quân ra Bắc đánh thắng nhiều trận, nhưng trong một trận không may bị giặc chém rơi mất đầu, vị tướng quân đó nhặt đầu lên lắp vào, tiếp tục phi ngựa “mở đường máu” trở về. Trên đường vị Tướng gặp một ông lão ở cuối sông Mã và hỏi ông lão có tin người bị mất đầu mà chắp lên cổ vẫn sống được không, ông lão bảo tin, tướng quân đi tiếp. Về đến Diễn Châu, gặp một bà lão ở phía Nam sông Bùng, tướng quân hỏi câu tương tự thì bà lão không tin “Loài quỷ, loài yêu tinh thì mới có thể bị chặt đầu này mọc ra đầu khác, còn loài người thì nếu bị chặt đầu là chết”. Đến đây, đầu tướng quân rơi xuống, người ông hóa thành hòn Hai Vai, ngựa của ông hóa thành hòn Mã Phục, trống và cờ trong trận chiến hóa thành hòn Trống Thủng và Cờ Rách. Trước khi nghe câu chuyện cha kể, Khiêm đã nói “Ai tưởng tượng ra đầu tiên hình dáng các hòn núi nớ hẳn là mắt tiên”, nhưng khi nghe xong, cậu lại “đăm chiêu nghĩ ngợi”, còn Côn lại cảm nhận thấy ước vọng của người xưa thật đẹp và trí tượng tượng thì thật tuyệt. Đúng như vậy, tuy câu chuyện về các hòn núi rất hư cấu, nhưng nó lại mang theo đó là những giá trị nhân văn cao đẹp, bởi nó thể hiện tinh thần bất khuất, kiên cường của nhân dân ta. 

Ba cha con cụ Phó Bảng tiếp tục cuộc hành trình thì đi qua đền Quả Sơn, ngôi đền này nhìn còn uy nghi hơn cả đền Vua Thục Phán trước đó ba cha con gặp. Tại đây, cụ Sắc lại tiếp tục kể cho Khiêm và Côn nghe về vị vua Lý Nhật Quang, người đã mở rộng bờ cõi, dẹp tan giặc xâm lược và dạy cả nghề cho nhân dân. Đất nước ta thật nhiều con người bình thường nhưng lại phi thường qua từng địa danh và câu chuyện cụ Sắc kể cho các con nghe với vốn hiểu biết phong phú của cụ. Cuối cùng, cụ Phó Bảng đưa hai con đến thăm nhà thợ họ Nguyễn Tiên Điền và mộ của Đại thi hào Nguyễn Du, người vô cùng tài năng và để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học nước ta, nhưng không được lập đền thờ. Côn lại thắc mắc với cha “Sao con lại thấy có ngôi đền thờ thằng ăn trộm bị đánh chết, hả cha?”, câu hỏi này có lẽ vì cậu bé còn quá nhỏ, chưa thể hiểu hết sự đời con người nên cụ Sắc chỉ biết cười trừ. Nhưng điều Côn thắc mắc lại thể hiện cậu bé không chỉ ham học hỏi mà cái nhìn của cậu cũng vô cùng sâu sắc, đúng là đáng buồn thay khi trong xã hội xưa người đem lại nhiều công lao lớn cho nền văn học đất nước như Nguyễn Du lại không được lập đền thờ mà có thằng ăn trộm bị đánh chết lại được lập đền thờ vì “đạo tặc tối linh tôn thần”. Qua những câu chuyện cụ Phó bảng kể cho hai con trên đường dọc xứ Nghệ đã thể hiện cụ là người có vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng, là người có cả trí và tài, hơn cả là có tình yêu quê hương đất nước. Và cụ cũng có cách giáo dục con cái rất đúng đắn, lan tỏa tình yêu thương đất nước cho các con thông qua những câu chuyện lịch sử của những con người đi trước đã làm nên Tổ quốc. Cả hai anh em Khiêm và Côn đều ngoan ngoãn và có tinh thần hiếu học. Cậu bé Côn tuy nhỏ tuổi nhưng có cái nhìn sâu sắc trong việc nhìn nhận, đánh giá con người, sự việc.

Với cách kể truyện giản dị và chân thật, nhà văn Sơn Tùng đã tái hiện thành công phẩm chất của Bác Hồ khi còn nhỏ qua cậu bé Côn. Đoạn trích Dọc đường xứ Nghệ với những địa danh và câu chuyện lịch sử qua lời kể củ cụ Nguyễn Sinh Sắc đã giáo dục cậu bé Khiêm và Côn những bài học về cách làm người và tình yêu quê hương, đất nước. Cũng qua đó, nhắc nhở mỗi chúng ta, đặc biệt là học sinh, tương lai của đất nước phải luôn nhớ ơn cha ông đi trước và cố gắng tu dưỡng bản thân để xứng đáng với lịch sử nước nhà, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 7 hay khác:


Giải bài tập lớp 7 Cánh diều khác