SBT Ngữ văn 11 Cánh diều Tầng hai

Với giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 11 Tầng hai sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 11.

Câu 1 trang 6 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Ai là người quan sát, cảm nghĩ về gia đình nhân vật Thắng?

A. Nhân vật Thắng

B. Nhân vật Phan

C. Nhân vật bà mẹ

D. Nhân vật chị vợ

Trả lời:

Đáp án B

Câu 2 trang 6 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Truyện chủ yếu diễn ra trong không gian nào?

A. Căn nhà hai tầng ở Vân Hồ – Hà Nội

B. Căn nhà trọ mười bốn mét vuông ở Hà Nội

C. Nhà bếp chừng tám mét vuông ở Vân Hồ – Hà Nội

D. Phòng Tiếp thị – Thị trường

Trả lời:

Đáp án A

Câu 3 trang 6 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Phương án nào thể hiện đúng nhất những âm thanh mà nhân vật Phan nghe thấy lúc đêm khuya?

A. Tiếng thở dài - tiếng khóc - tiếng người mẹ

B. Tiếng cánh cửa - tiếng thở nặng nhọc - nhịp thở đều đều

C. Tiếng ti vi - tiếng gõ bát đũa - tiếng la oai oái

D. Tiếng xe máy - tiếng áo mưa rũ - tiếng trẻ khóc

Trả lời:

Đáp án A

Câu 4 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Tìm từ láy có trong các câu văn dưới đây:

- Liền sau đấy là tiếng hỉ mũi rất to và những tiếng nấc tức tưởi.

- Lần này cộng thêm cả tiếng gõ bát đũa lanh canh khiến cái tầng hai trở nên hết sức nhộn nhạo.

- Nhạc bật lên rộn rã. Tiếng ti vi léo nhéo.

Hãy nhận xét về cách dùng từ láy của tác giả.

Trả lời:

- Các từ láy: tức tưởi, lanh canh, nhộn nhạo, rộn rã, léo nhéo

- Nhận xét về cách dùng từ láy của tác giả: Đó đều là các từ láy tượng hình, tượng thanh giàu sức biểu cảm, biểu tượng, giúp người đọc dễ hình dung bối cảnh.

Câu 5 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Đọc đoạn văn sau và cho biết, nhân vật mẹ của Phan thường làm gì vào buổi sáng sớm?

“Phan vẫn có thói quen nằm yên lặng trong bóng đêm, lắng nghe những âm thanh từ tầng hai vọng xuống, tưởng tượng ra những gương mặt. Những lúc ấy, cô lại chợt nhớ nhà đến cồn cào. Mẹ cô thường dậy sớm quạt bếp lò, nấu ấm nước nóng cho cha cô pha trà rồi làm bữa ăn sáng cho cả nhà. Khuôn mặt mẹ vì vậy mới sớm ra đã lấm tấm mồ hôi.”.

Trả lời:

Nhân vật mẹ của Phan vào buổi sáng sớm thường dậy sớm quạt bếp lò, nấu ấm nước nóng cho cha cô và làm bữa ăn sáng cho cả nhà.

Câu 6 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 1, SGK) Hãy tóm tắt truyện Tầng hai. Từ đó, nhận xét về cốt truyện và bố cục của văn bản.

Trả lời:

 * Tóm tắt truyện:

Phan là một cô gái trẻ sinh ra ở tỉnh lẻ. Gia đình Phan gồm có bố mẹ và chị gái. Họ không phải là gia đình giàu có. Ở quê, từng có lúc mẹ Phan phải đi vay nợ để chăm lo cho con ăn học. Sau khi tốt nghiệp đại học, Phan không về quê lập nghiệp mà ở lại Hà Nội. Phan làm việc năng nổ, chăm chỉ ở Phòng Tiếp thị – Thị trường của một công ty. Cô khao khát trở nên giàu có. Phan kí hợp đồng thuê căn phòng tầng một trong căn nhà hai tầng ở Vân Hồ làm chỗ ở. Căn phòng như cái hộp, thông với tầng hai qua lối cầu thang. Phan làm việc suốt ngày ở công ty, khi về phòng trọ thì thường vào lúc đêm khuya. Phan sống kín đáo, khép mình, sợ gây ồn ào làm phiền chủ nhà sống trên tầng hai. Ở trong phòng riêng, Phan thường nghe được những âm thanh vọng xuống. Trên tầng hai có bà mẹ sống cùng vợ chồng người con trai. Bà mẹ ngoài sáu mươi tuổi, ở phòng riêng, bị bệnh thấp khớp, chân tay hay tê mỏi, hay ngủ mê. Anh con trai tên Thắng làm việc ở xưởng in. Thỉnh thoảng đêm khuya chưa thấy chồng về nhà, chị vợ lại tủi thân, bật khóc. Những lúc như thế, bà mẹ dịu dàng khuyên nhủ, an ủi con dâu. Có lúc, Phan nghe được cuộc trò chuyện của đôi vợ chồng, cuộc trò chuyện của người mẹ và anh con trai. Đôi vợ chồng quan tâm đến nhau, anh con trai lo lắng cho sức khoẻ của mẹ, còn bà mẹ thì quan tâm, lo lắng cho người con dâu đang mang thai. Rồi một ngày, chị vợ sinh em bé, căn nhà rộn ràng. Những người trên tầng hai trò chuyện thân mật, đùa vui, cưng nựng em bé mới chào đời. Phan dự định rồi lại rụt rè không dám bước lên tầng hai nhưng rồi Phan cũng lên thăm cháu bé sơ sinh. Lần đầu được nhìn rõ không gian sinh hoạt của gia đình chủ nhà, Phan rất ngạc nhiên. Không ngờ những âm thanh sống động và tiếng nói cười hạnh phúc lại có thể xuất hiện ở nơi chốn giản dị đến thế. Phan nghĩ về gia đình mình, về người mẹ, người chị gái ở quê. Phan hình dung những khuôn mặt thân thương ruột thịt mà lâu rồi Phan đã không mường tượng. Phan nghĩ đó là hạnh phúc, vậy mà lâu nay cô cứ mải mốt tìm kiếm nó ở đẩu ở đâu.

* Nhận xét về cốt truyện: Tầng hai không có cốt truyện kịch tính với cấu trúc năm thành phần như đã thấy trong văn bản Hồi trống Cổ Thành (Tam quốc diễn nghĩa – La Quán Trung); cũng không có những mâu thuẫn, xung đột căng thẳng, diễn biến bất ngờ như trong Trái tim Đan-kô (Go-rơ-ki). Nó cũng không phải là câu chuyện cuộc đời một con người với những quyết định hệ trọng, đặt trong bối cảnh xã hội – lịch sử rộng dài như truyện Một người Hà Nội (Nguyễn Khải). Tầng hai có cốt truyện tâm lí. Sự kiện trong truyện là những việc vụn vặt, nhỏ nhặt; những nỗi lo âu và hi vọng thường nhật được kết nối dựa theo diễn biến tâm lí (tâm trạng, cảm xúc, hồi ức, liên tưởng) của nhân vật chính.

* Nhận xét về bố cục: Văn bản Tầng hai có bố cục gồm năm phần.

Phần (1) giới thiệu các nhân vật, phòng trọ, thói quen sinh hoạt và lối sống của Phan, cuộc nói chuyện trong đêm khuya của người mẹ và cô con dâu. Phần (2) kể về công việc của Phan ở công ty, cuộc trò chuyện vào buổi đầu hôm của đôi vợ chồng, cuộc trò chuyện của con dâu với mẹ chồng, tâm trạng của Phan. Phần (3) miêu tả sinh hoạt vào buổi sáng của người trong nhà. Phan nghe được âm thanh, hình dung cử chỉ, hành động, sự quan tâm lẫn nhau của đôi vợ chồng trẻ. Phan quan sát đồ đạc trong căn phòng trọ, nghĩ về quyết tâm lập nghiệp ở thành phố. Phần (4) kể chuyện người vợ sinh em bé, cuộc sống của gia đình chủ nhà khi có thêm thành viên mới; Phan lần đầu tiên lên tầng hai thăm cháu bé, quan sát nơi ở của chủ nhà, ngạc nhiên về hạnh phúc bình dị của họ. Phần (5) nói về việc Phan nhớ nhà, nhớ mẹ, hình dung về những gương mặt của người thân yêu ruột thịt ở quê, suy nghĩ về mục đích sống của cô lâu nay.

=> Từ cốt truyện và bố cục, có thể thấy trật tự thời gian tuyến tính trong kiểu cốt truyện truyền thống được tác giả kế thừa nhưng làm mới bằng cách để người kể chuyện (Phan) thường xuyên có các liên tưởng, hồi ức, tạo sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ, giữa cuộc sống của gia đình Thắng – cuộc sống của Phan (ở Hà Nội) – cuộc sống của gia đình Phan (ở tỉnh). Phần mở đầu (1) và phần kết thúc (5) có liên hệ chặt chẽ, tạo một vòng tròn, vừa mở ra / khép lại câu chuyện về gia đình Thắng, vừa hé mở bức tranh sinh hoạt của gia đình Phan, góp phần thể hiện rõ hơn chủ đề và triết lí nhân sinh của truyện.

Câu 7 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Truyện xảy ra trong những thời điểm nào? Nêu các từ ngữ chỉ thời gian được tác giả sử dụng trong truyện giúp em xác định được các thời điểm đó.

Trả lời:

Truyện xảy ra trong những thời điểm: 

- Chủ yếu vào chiều tối, đêm khuya:

+ Lại có lần, cô trở về nhà khi ngôi nhà đã hoàn toàn yên lặng trong giấc ngủ… Giấc ngủ nhập nhoạng kéo đến tê tê mí mắt, Phan lại nghe thấy âm thanh giống như tiếng khóc.

+ Một đêm về sáng, Phan chợt giật mình vì nghe tiếng động lạ trên tầng hai.

- Sáng sớm ngày nghỉ của Phan:

+ Có lần, vào ngày nghỉ, người mẹ về quê ăn cưới, tầng hai chỉ có đôi vợ chồng trẻ. Sáng sớm, chị vợ lạch cạch mở khóa cửa, xách làn đi chợ,...

Câu 8 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 3, SGK) Nhân vật “bà mẹ” sống trong căn nhà hai tầng được giới thiệu như thế nào? Nêu những chi tiết tiêu biểu trong truyện thể hiện tính cách của nhân vật này.

Trả lời:

- Nhân vật được giới thiệu: bà mẹ đã già, là cựu thanh niên xung phong, sức khoẻ yếu, có bệnh thấp khớp, chân tay hay tê mỏi, đêm ngủ hay nói mê.

- Chi tiết (lời nói, thái độ) thể hiện tính cách của bà mẹ:

+ Lời nói thể hiện lòng nhân hậu, bao dung; bảo ban, an ủi con dâu, con trai: “Mày có ngủ đi không con! – Tiếng người mẹ – Mà cái thằng này nó cũng tệ. Đi đâu phải báo với nhà một tiếng chứ cứ mất mặt như thế, lỡ có chuyện gì. Thôi ngủ đi con ạ. Chắc nó lại ham chơi bạn bè đấy mà. Để mai nó về mẹ cho nó một trận.”; “Đang mang thai mà khóc như thế này là không tốt đâu, con ạ. Thôi, chồng nó có gì không nên không phải thì bảo ban lấy nhau mà sống. Ai lại khóc lóc như trẻ con thế. Ngủ đi con!”.

+ Lời nói thể hiện sự quan tâm lo lắng cho sức khoẻ của con dâu, sự an toàn của con trai: “Mà con có đói thì uống thêm cốc sữa. Chịu khó mà ăn cho con nó khoẻ. Lúc tối mẹ thấy mày ăn ít quá, mẹ lại xót. Sắp làm mẹ đến nơi rồi đấy, biết không con.”; “Đi cẩn thận con nhé!”, “Ăn cố bát nữa, lấy sữa cho con nó bú đi con.”.

+ Khi tiếp xúc với người thuê nhà, bà có những lời nói, cử chỉ tỏ rõ thái độ vui vẻ, niềm nở: “Kìa cháu. - Bà chủ nhà vồn vã - Lên đây cháu!”.

Câu 9 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: (Câu hỏi 5, SGK) Vì sao nhân vật Phan lại ngẫm nghĩ: “Hoá ra hạnh phúc giản dị hơn những gì cô tâm niệm.”? Theo em, đây có phải là chủ đề của truyện không? Hãy làm rõ ý kiến của em.

Trả lời:

Nhân vật Phan ngẫm nghĩ: “Hoá ra hạnh phúc giản dị hơn những gì cô tâm niệm.”. Đây là suy nghĩ đột nhiên, bất ngờ của Phan, trái với điều lâu nay Phan đã thường xuyên nghĩ tới và tự nhắc mình để ghi nhớ, làm theo.

- Phan từng không thích thú gì cuộc sống dưới quê. Cô từng không muốn nghĩ đến quê hương, gia đình của mình vì gia đình Phan ở quê túng thiếu tiền bạc, nghèo khổ, thường hay bất hoà. (“Cô ít khi về dưới quê vì chán những cảnh cãi vã như cơm bữa.”, “Cô đã quá thấm thía nỗi khổ cực do sự nghèo mang lại...”).

- Phan từng quyết tâm phải lập thân, lập nghiệp ở thành phố. (“Cô sống chết cũng phải bám lấy đất này, phải mở mày mở mặt tại đây...”).

Phan thường xuyên nghĩ tới, động viên nhắc nhở mình phải cố gắng để trở thành người thật giàu có. Với Phan, giàu có chính là điều kiện thiết yếu để có được cuộc sống hạnh phúc (“Cô sẽ phải giàu, thật giàu.”).

Nhưng khi lắng nghe những âm thanh của cuộc sống vọng xuống từ tầng hai, nhất là khi tận mắt quan sát căn phòng hẹp, đồ đạc đơn sơ, giản dị của gia đình chủ nhà, cô bất ngờ nhận thức được rằng: Cuộc sống hạnh phúc không phải là cuộc chạy đua tìm kiếm sự giàu có về vật chất, tiền bạc như cô từng tâm niệm mà có thể có trong một căn nhà chật hẹp, đồ đạc đơn sơ nhưng mọi người được sống chan hoà trong sự quan tâm, chia sẻ, yêu thương lẫn nhau.

=> Ý nghĩ của Phan ẩn chứa chủ đề của truyện Tng hai: Hạnh phúc là được sống cuộc đời trong sự quan tâm, chia sẻ, yêu thương. Đây là chủ đề của truyện vì thông điệp này bộc lộ gián tiếp qua các yếu tố như nhan đề, nhân vật, bối cảnh, điểm nhìn, giọng kể (sự thay đổi trong cách nhìn, cách cảm nghĩ của Phan về cuộc sống); bộc lộ một cách trực tiếp qua ý nghĩ của nhân vật Phan, nhất là ở đoạn cuối truyện (ý nghĩ về hạnh phúc, hình dung về niềm vui giản dị trong gia đình).

Câu 10 trang 7 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Từ truyện ngắn Tầng hai, em có suy nghĩ gì về mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội hiện đại? Hãy ghi lại suy nghĩ đó bằng một đoạn văn (khoảng 8 – 10 dòng).

Trả lời:

– Trong truyện Tầng hai, có mối quan hệ giữa chủ nhà và người thuê nhà, giữa các thành viên trong gia đình. Người thuê nhà (Phan) ban đầu sống khép kín, thu mình, rụt rè. Phan cũng thờ ơ với những người thân trong gia đình. Các thành viên trong gia đình chủ nhà thì sống trong sự chan hoà, quan tâm lẫn nhau và bày tỏ sự cởi mở, thân thiện với người thuê nhà. Chính thái độ và lối sống của gia đình chủ nhà đã làm thay đổi quan niệm và tình cảm của Phan một cách tích cực: Phan nhận ra hạnh phúc đến từ sự thương yêu, quan tâm lẫn nhau giữa những người thân trong gia đình. Sự quan tâm, chia sẻ giữa con người với con người trong xã hội khiến cá nhân có thể vượt qua các ranh giới, các rào cản (tuổi tác, giới tính, địa vị, quê quán) để hoà nhập, kết nối, cùng nhau chung sống vui vẻ, hạnh phúc.

– Mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội hiện đại đang có nhiều thay đổi, khác biệt rõ so với trong xã hội truyền thống. Xã hội hiện đại (nhất là ở khu vực đô thị) đề cao tính cá nhân, riêng tư, coi trọng vật chất nhiều khi đến mức cực đoan đã dẫn con người đến lối sống khép kín, “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”, ít quan tâm, không muốn chia sẻ, thậm chí thờ ơ, lạnh lẽo với người thân, người xung quanh. Mối quan hệ giữa con người với con người có xu hướng trở nên lỏng lẻo, nhạt nhẽo hoặc sòng phẳng, lạnh lùng. Ngược lại, xã hội truyền thống (nhất là ở khu vực nông thôn) đề cao tính cộng đồng, “Tình làng nghĩa xóm”, “Tắt lửa tối đèn có nhau”, coi trọng các quan hệ tình thân, dòng tộc, làng xã, vì thế mà mối quan hệ giữa con người và con người trở nên thân thiết, ấm áp. Tuy nhiên, sự quan tâm thái quá, nhiều khi thiếu tế nhị (thường hay dò hỏi chuyện riêng của người khác chỉ để thoả mãn sự hiếu kì, thậm chí xâm phạm quyền riêng tư của họ một cách hồn nhiên),... đã gây ra những sự phiền phức, quấy nhiễu cuộc sống của người khác. Làm sao để trong khi quan tâm đến nhau, gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người, mỗi người vừa thể hiện được sự quan tâm, chia sẻ (để cuộc sống cá nhân bớt khép kín, cô đơn, cô độc) vừa thể hiện được sự tôn trọng quyền riêng tư của nhau là một vấn đề mà truyện Tầng hai gợi ra.

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 11 Bài 5: Truyện ngắn hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 11 Cánh diều hay, chi tiết khác:


Giải bài tập lớp 11 Cánh diều khác