Phân tích bài Lai Tân (cực hay)



Đề bài: Phân tích bài thơ Lai Tân của Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Lai Tân - mẫu 1

   Nhật kí trong tù (1942 - 1943) tập thơ xuất sắc, giàu tính chiến đấu, chất trí tuệ và đậm chất trữ tình của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh. Tập thơ có hình thức nhật kí, đa dạng về bút pháp, giọng điệu trong đó bút pháp tự sự trào phúng chủ yếu để chê giễu, châm biếm, lên án nhà tù và chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Bài thơ Lai Tân sử dụng bút pháp tự sự trào phúng giàu chất trí tuệ.

   Ba câu thơ đầu được thuật chuyện các nhân vật

    Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

    Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

    Chong đèn huyện trưởng làm công việc

   Tác giả không nêu tên mà chỉ điểm danh từng người một, chức vụ gắn với trọng trách xã hội trong bộ máy công quyền, họ phải làm gương cho dân chúng trong việc thực thi pháp luật.

   Cách điểm danh và kể việc rành mạch tưởng như ai lo phận nấy, theo đuổi một cách mẫn cán. Nhưng họ đã làm việc gì.

   Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc. Đánh bạc là phạm pháp, đánh bạc ở ngoài quan bắt tôi thế mà trong tù đánh bạc được công khai nên chủ ngục đánh bạc nhiều hơn ai hết. Bọn quan coi ngục đã coi thường luật pháp.

   Cảnh sát trưởng bắt người vô tội để họ chạy vạy, lo lót, xin xỏ. Tên này rất ranh ma, dụng chuyện để ăn hối lộ. Còn khi chuyển lao thì tìm cách ăn chặn tù nhân. Hành vi của hắn thật bẩn thỉu, đê tiện.

   Huyện trưởng chong đèn làm việc thâu đêm, ông ta làm việc gì không được biết. Hút thuốc phiện? Đồi bại đến thế! Soạn công văn ? Chăm chỉ làm việc mà không biết cấp dưới thao túng, lũng đoạn, nhũng nhiễu dân chúng. Hắn chỉ là một viên quan làm vì, dốt nát nên dễ bị cấp dưới qua mặt. Bất tài, vô trách nhiệm như thế là cùng. Hay là có biết nhưng làm ngơ, có mắt mà như mù. Vậy thì cá mè một lứa, một bè lũ quan lại tham nhũng thối nát. Ý thơ lấp lửng gợi được nội dung nhiều chiều.

   Phép liệt kê quan chức từ nhỏ đến lớn và phép tăng tiến cho thấy phạm vi hiện thực được mở rộng dần theo từng cấp bậc, chức càng cao càng hủ bại. Phép điệu cú cho thấy công việc của bọn họ khá nhịp nhàng, rành rạch và bức tranh hiện lên sinh động như màn kịch câm.Việc làm của họ quên thuộc đến mức gần như vô thức. Bộ máy cai trị vẫn cứ chạy đều, nhịp sống vẫn diễn ra bình thường. Trong quy luật sinh học, cái đột biến mà phổ biến thì trở thành thường biến. Sinh học chỉ ghi nhận cái thường biến để nhận thức bản chất đối tượng. Cái bất thường được lặp đi lặp lại hóa ra bình thường, ở Lai Tân cái thối nát đến cực đại trở thành sự thường, thành nền nếp quy củ hẳn hoi, họ rất khéo léo che đậy nên cuộc sống vẫn yên ổn. Đó là cái đáng sợ nhất. Tiếng cười phê phán châm biếm có chiều sâu trí tuệ là ở đó.

   Hai câu thơ đầu tác giả vạch rõ ra cái thối nát của ban trưởng, cảnh sát trưởng. Câu thứ ba lại bỏ lửng càng tăng thêm ý vị mỉa mai trào lộng.

   Câu thơ kết bình luận, đánh giá sự việc đã được kể. Theo mạch tự sự thì câu thơ cuối mang nội dung phê phán nhưng tác giả kết luận ngược.

    Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình

    (Lai Tân y cựu thái bình yên)

   Thối nát như vậy thì "thái bình" sao nổi. Đang loạn đấy chứ. "Y cựu" đối với "Lai Tân". Lai Tân mà văn như xưa. Nghĩa là cái thối nát thành nề nên không đổi. Tiếng cười mỉa mai chua chát toát ra tư cách nói ngược và nghệ thuật chơi chữ ẩy.

   Hay đây là lời nhận xét bao biện của bọn chúng. Tiêu cực thi có nhưng cuộc sống vẫn yên ổn, đất nước thì "vẫn thái bình, thịnh trị". Lời ngụy biện mị dân ấy thật là tội lỗi quá lớn. Cái vỏ bề ngoài bình yên nhưng bên trong rường cột bị đục khoét rỗng cả rồi. Cái trời đất Lai Tân này sắp sụp đổ.

   Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh thế giới đang chao đảo vì chiến tranh. Nước Trung Hoa cũng đang tang tốc vì bọn phát xít.1 Trong khi:

    Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận

    Hoàn cầu bốc lừa rực trời xanh.

   Thì bọn chúng ở góc huyện này vẫn rung đùi hưởng thụ và đục khoét dân chúng, ở đâu đánh giặc cứ đánh, chúng vẫn an nhiên hưởng "thái bình". Bọn chúng là lũ giặc nội xâm. Lai vung đang đại loạn.

   Một chữ thái bình đã xé toạt bức màn dối trá, phơi bày những ung nhọt của xã hội thời Tưởng. Hiện thực này có ý nghĩa tự tố cáo.

   Bài thơ thể hiện nội dung chiến đấu sắc sảo, trí tuệ. Lời thơ giản dị nhưng thể hiện bút pháp trào phúng bậc thầy. Nghệ thuật châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay.

Phân tích bài thơ Lai Tân - mẫu 2

Khi ta nói đến Nhật kí trong tù là ta nói đến tập nhật kí bằng thơ của Bác. Trong tập nhật kí bằng thơ này, ta thấy hiện lên một tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng trước cách tù đày. Ta bắt gặp một con người có một niềm khao khát tự do, khao khát chiến đấu với tinh thần và bản lĩnh của một nhà cách mạng. Ta bắt gặp một tấm lòng nhân đạo bao la với tình thương và lòng bao dung nhân hậu của Người trước mọi đau thương của thể nhân vạn vật, và bên cạnh đó, trong tập nhật kí này ta còn bắt gặp rõ nét cái hiện thực xã hội Trung Hoa dưới thời quân tướng. Cái xã hội ấy tuy ta còn thấy thấp thoáng cảnh bình yên ả của vùng đất phương Đông. Nhưng trong tập thơ này lại hiện lên hình ảnh một xã hội thối nát và mọt rỗng dưới bàn tay nhơ bẩn của kẻ cầm quyền, nhất là bộ mặt thối nát của nhà tù Trung Quốc. Trong đó bài thơ Lai Tân thể hiện rất rõ nét vấn đề này:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

….

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ tuy ngắn nhưng chứa đựng một dung lượng phản ánh lớn. Trước hết nhà thơ vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn ác, mọt rỗng của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Bên cạnh đó bài thơ hiện lên một tiếng cười mỉa mai chua xót cho luật pháp nhà tù ở noi đây. Hai nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và được gắn kết chặt chẽ bằng nghệ thuật trào phúng độc đáo rất Hồ Chí Minh

Trước hết bài thơ Lai tân vạch rõ bộ mặt thật của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Như chúng ta đã biết tập Nhật kí trong tù được Hồ Chí Minh sáng tác trong hoàn cảnh bị chính quyền Tưởng Giới thạch bằng một con mắt tinh tế và độc đáo, trong đó có nhà tù Lai Tân:

Giam phòng ban trưởng thiên thiên đố

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

Huyện trưởng thiêu đăng viện ông sự

(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Cảnh trưởng tham lam ăn chặn tiền phạm nhân

Trong đèn ông huyện trưởng bàn công việc).

Ba câu thơ đầu của bài thơ cho ta thấy rõ cảnh tượng của nhà giam Lai Tân. Đây là nơi giam giữ những ngừơi phạm pháp, là nơi mà pháp luật thể hiện uy quyền và hiệu lực nhất. Ấy thế mà cảnh đập vào trước mắt người đọc là gì? Câu thơ thứ nhất hiện lên hình ảnh ban trưởng nhà lao, con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người chuyên đánh bạc. Thật là nực cười cái chính quyền ấy đặt ra luật pháp để bắt tội những con người nhỏ bé trong xã hội ấy thì những kẻ thực thi lại giẫm đạp lên. Cái chính quyền ấy bắt giam những con người khốn cùng còn những kẻ thực thi luật pháp của chính quyền ấy thì tha hồ làm bậy. Cảnh tượng này đã được Bác phản ánh trong nhiều bài thơ khác:

Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc đường công khai.

Ở tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này.

Như vậy dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc đó lại là những người thực thi pháp luật. Những người cờ bạc lén lút ngoài ở ngoài dưới bàn tay giáo dục thì họ có tốt được hay chăng? Tất cả những cái đó đã vẽ lên hình ảnh của nhà tù nơi đây, hình ảnh đó bên ngoài thì nghiêm minh nhưng bên trong thì giả dối, bất công, phi lí. Sang câu thơ thứ hai Hồ Chí Minh tiếp tục cho ta thấy sự thối nát đê tiện của chính quyền nơi này:

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

(Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân)

Hành động của cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Trong Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh nói nhiều về vấn đề này:

Hút thuốc nơi này cấm gắt gao

Thuốc anh nó tước bỏ vào bao

Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha. Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự thối nát của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch. Cái nhà tù đó quan lại là những tên ăn cướp một cách tàn nhẫn và đê tiện.

Trong đèn huyện trưởng bàn công việc.

Như trên chúng ta đã phân tích, ban trưởng thì chuyên đánh bạc, cảnh trưởng thì là kẻ cướp ngày, thế còn huyện trưởng thì sao. Thoạt đầu ta cứ tưởng huyện trưởng là con người của công việc, người đang thâu đêm suốt sáng để bàn công việc. Nhưng ta thử nhìn kĩ lại xem nào? Bàn công việc gì mà lại chỉ có một mình thôi? Hay là ngài đang thao thức điều gì? Không! Hình như ngài đang hút thuốc phiện thì phải? Thế đấy, người to nhất thì lại thờ ơ vô trách nhiệm, ngài đang bận nhưng mà bận hút thuốc. Quả là đáng mỉa mai phỉ nhổ cho bộ máy nhà tù nơi này.

Tóm lại, chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Cái xã hội ấy toàn những con người ăn cướp, cờ bạc, nghiện hút. Nhưng mỉa mai thay lại là những người đứng đầu bộ máy chính quyền luật pháp. Thật là sự mỉa mai ghê tởm xót xa.

Bên cạnh việc phản ánh bộ mặt xấu xa của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng giới thạch thì Hồ Chí Minh đã không quên tung ra những tiếng cười mỉa mai chua cay cái xã hội ghê tởm tàn bạo đó. Ba câu thơ đầu tiếng cười bật ra thật bình thản. Dường như ta chỉ thấy nhà thơ thuật lại cảnh mà mắt thấy tai nghe ở nhà tù Lai tân mà không hề tỏ thái độ gì. Chính cái đó đã tạo nên giá trị mỉa mai chua chát. Ngay ở chốn lao tù được coi là noi nghiêm minh nhất của pháp luật, thế mà lại diễn ra bao cảnh xâu xa bẩn thỉu. Ban trưởng thì cờ gian bạc bịp, cảnh trưởng là tên vô lại, huyện trưởng là kẻ vô tâm xấu xa hút sách. Tất cả những cảnh đó đã nói lên tình trạng thối nát của bộ máy quan lại thời tưởng giới thạch.

Song câu thơ cuối cùng của bài thơ tiếng cười mỉa mai chua xót lại bật lên giòn giã. Nếu như hai câu thơ trên là ba câu thơ tự sự còn câu kết lại phát biểu cảm tưởng của nhà thơ. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Có gì mâu thuẫn không khi mà ba câu trên nói về chuyện không bình thường của tình trạng nhà tù nơi đây. Bọn người thực thi luật pháp lại là những tên vô lại xấu xa. Nhưng tại sao trời đất vẫn thái bình? Vậy thái bình là ở Lai Tân là thái bình gì? Phải chăng đó là hiện tượng thái bình giả tạo? Nhưng kì thực đó là lời mỉa mai chua xót. Hóa ra thái bình ở Lai tân là thái bình mà ban trưởng đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền và huyện trưởng cứ chong đèn mà hút thuốc. Cái xã hội ấy vẫn cứ vận hành đều đều như vậy đấy, rất yên ổn, rất thái bình.

Như vậy, bài thơ bật lên tiếng cười mỉa mai, châm biếm sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, đã trở thành phổ biến, trở thành nếp sống, trở thành bình thường đến nỗi kẻ làm bậy mà thái độ cứ như không vậy. Tiếng cười mỉa mai đó đã bật ra từ nghệ thuật trào phúng độc đáo của Bác. Giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng sự mỉa mai đã kích mạnh mẽ vô cùng.

Phân tích bài thơ Lai Tân - mẫu 3

Nổi bật nhất về nội dung trong Nhật kí trong tù là hai giá trị. Thứ nhất, qua những trang nhật kí của Bác ta gặp những bức tranh chân thực về chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch. Những hình tượng điển hình này có ý nghĩa khái quát như những bức tranh xã hội. Nội dung thứ hai trong tập Nhật kí trong tù là bức chân dung tự họa thế giới tâm hồn của con người “đại nhân, đại trí, đại dũng”.

Nếu bài “Mộ” tiêu biểu cho nội dung thứ hai thì “Lai Tân” rất tiêu biểu cho nội dung thứ nhất. “Lai Tân” sử dụng nghệ thuật chậm biếm hết sức sắc sảo độc đáo, đạt hiệu quả cao. Nó không dừng lại đả kích một vài tên quan cụ thể mà thông qua những bộ mặt cá nhân này, ta thấy cả bộ mặt xã hội đang ở thời kì mục nát.

Kết cấu bài thơ gồm hai phần rất chặt chẽ. Ba dòng đầu là những câu trần thuật rất khách quan về ba nhân vật “ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng”. Phần thứ hai là câu thơ cuối. Nó thay đổi từ giọng trần thuật khách quan sang trữ tình chủ quan. Đó là đánh giá, phát biểu cảm nghĩa của người viết.

Câu thơ thứ nhất tiếp cận một nhân vật mà người tù nhấn ngày nào cũng thấy mặt “Giam phòng ban trưởng thiên thiên đố”. Có nghĩa là “Ban trưởng nhà giam ngày này đến ngày khác đánh bạc”.Rõ ràng đây là sự ghi nhận hiện thực rất khách quan, không hàm ý chê bai, phê phán như trong bản dịch thơ: “Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”.

Hành động đánh bạc ở bất cứ quốc gia nào, thời kì nào cũng được coi là hành vi xấu. Nước Trung Hoa vào những năm đầu thế kỉ XX coi đây là một hành động phạm pháp. Vì tội này kẻ đánh bạc có thể phải ngồi tù. Lạ lùng thay, kẻ thi hành luật pháp, đang giam giữ những người tù đánh bạc lại là kẻ say mê máu đỏ đen; kẻ hành pháp ngang nhiên phạm pháp. Nhiệm vụ của ban trưởng nhà giam có rất nhiều việc cần phải làm.

Ấy vậy mà, tất cả thời gian có mặt làm công vụ, ban trưởng lại dành cho việc sát phạt bạc tiền với tù nhân. Hai tiếng “thiên thiên” đã khẳng định tính quy luật ngày này đánh bạc, ngày sau đánh bạc, và ngày sau nữa nhiệm vụ của hắn cũng là đánh bạc.

Ở câu thơ thứ hai, lời trần thuật khách quan đã lồng thái độ ghê tởm và phẫn nộ bởi hai tiếng “tham thôn”. Cảnh trưởng gắn bó với bản chất tham lam. Hắn ăn hối lộ, nuốt những miếng to. “Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”. Quả là “cảnh trưởng” tham lam nuốt trôi những đồng tiền của phạm nhân được giải đi. Lời dịch thơ đã không tố cáo được bản chất của quan “cảnh trưởng” huyện Lai Tân: “Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.

Cả hai nhân vật “ban trưởng” và “cảnh trưởng” đều cùng hệ thống- nghĩa là cả hai đêu phụ trách về an ninh của huyện Lai Tân. Cả hai đều giống nhau chữ “trưởng”. Tức là những kẻ có quyền chóp bu. Tuy nhiên, dưới “cảnh trưởng” là “ban trưởng”. Cái khác nhau của hai nhân vật này chính là mối quan hệ trên dưới. Ngài “ban trưởng” dĩ nhiên là thuộc cấp của “cảnh trưởng”.

Hình như có một sự bất thường trong hai câu thơ. Đáng lẽ ra “ban trưởng” thì tham lam, bóc lột tiền của phạm nhân, Còn “cảnh trưởng” thì ngày ngay đánh bạc bởi những đồng tiền do ban trưởng dâng cho. “Ban trưởng” tiểu nhân vô lại thì trắng trọn là đúng. Còn “cảnh trưởng” là tai to mặt lớn, ăn tiền của phạm nhân cần lánh đáo, cần phi tang qua trung gian!

Vậy mà ở đây “cảnh trưởng” lại là người ăn tiền một cách trắng trợn vô liêm sỉ. Người ta tự hỏi “ban trưởng” lấy tiền ở đâu mà ngày ngày cũng có để sát phạt? Trong nguyên văn của bài thơ này Hồ Chí Minh không nói tới mánh khóe của hắn. Nhưng ở những trang nhật kí khác, ta có thể thấy nguồn tiền bẩn thỉu này ở đâu ra.

“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội .

Trong tù đánh bạc được công khai

Bị tù, con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này”.

Hoặc:

Mới đến nhà giam phải nạp tiền

Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên

Nếu anh không có tiền đem nạp

Mỗi bước anh đi mỗi bước phiền.

Trớ trêu hơn:

Vào lao phải nộp khoản tiền đèn

Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên.

Thượng cấp của “ban trưởng’’ lạ lùng thay lại không có máu me cờ bạc. Chỉ cần một sự thay đổi phòng giam, thay đổi nơi chốn trại giam thì tù phải cung phụng tiền bạc. Có lẽ để tránh những phòng giam đầy rẫy nhưng con “đại bàng khát máu” những người tù phải cho cảnh trưởng những đồng tiền nặng túi. Như vậy “ban trưởng” chỉ kiếm tiền nhỏ để mua vui bằng đánh bạc. “Cảnh trưởng” tìm được những món tiền lớn hơn.

Vì vậy hạnh phúc của ngài là được ngắm tiền chứ không phải là dùng tiền để chơi. Xã hội bất thường khi những kẻ cầm quyền làm tiền bất chính trên mồ hôi nước mắt của dân. Xã hội mục rỗng đến tận cùng khi mà kẻ có quyền lực không còn giấu giếm thủ đoạn kiếm tiền. Nó công khai lấy tiền bằng những hành động hèn hạ.

Vẫn theo lối trần thuật khách quan của thể loại “kí”, câu ba cho ta hình tượng về người đứng đầu chính quyền, của huyện Lai Tân. “Huyện trưởng thiếu đàng biện công sự”. Nghĩa là chong đèn, huyện trưởng giải quyết những công việc của chính quyền. Nếu tách hẳn câu thơ này ra khỏi bài thì đây thật là vị quan “chí công vô tư” xứng đáng là “phụ mẫu chi dân” đèn trời soi thấu nhân gian.

Việc công thường được giải quyết trong giờ hành chính. Vậy mà trong đêm, quan cũng không yên giấc lành. Những nỗi đau, những nỗi oan của dân vẫn làm cho quan phụ mẫu phải thao thức. Quan phải giải quyết công việc, cân nhắc mọi lẽ để có tình có lí, đem lợi lộc cho dân đen con đỏ.

Không hề thấy tín hiệu nào cho biết quan đang ở đâu. Có khả năng là ở công đường, cũng có khả năng là ở tư gia và không loại trừ có người nhìn thấy quan bước vào nhà nào đó rồi chong đèn thâu đêm. Nhưng theo giọng điệu của câu thơ thì người viết đã tỏ ra “thật thà”. Dù ở đâu quan “chong đèn” thì ở đó quan cũng lo cho nhân dân.

Có một ngạn ngữ rất nổi tiếng: “Nếu cho tôi biết thuộc cấp của anh là người thế nào, tôi cho biết anh là người thế nào”. Chả lẽ thuộc cấp của “huyện trưởng” là những thằng lưu manh dùng quyền uy để phạm pháp mà “huyện trưởng” lại là người “chính nhân quân tử”? Chắc hẳn “huyện trưởng” phải lưu manh hơn, phải là kẻ phạm tội lớn hơn, phải là kẻ lợi dụng chức quyền để làm những chuyện tày trời hơn!

Chúng ta biết rằng vùng đất Quảng Tây những năm 40 thế kỉ XX là nơi sản xuất, mua bán rất nhiều thuốc phiện. Thói quen của những kẻ nhiều bạc lắm tiền ở đây là hút thuốc phiện. Ngọn đèn dầu lạc luôn luôn đồng nghĩa với những cuộc làm bạn với “nàng tiên nâu”. Ba nhân vật cao nhất của chính quyền huyện Lai Tân là ba con người phạm tội. Mỉa mai hơn là chúng dùng quyền lực để công khai phạm pháp. Cả ba chỉ lo cho chính mình. Cả ba sinh ra để làm hại dân, bóc lột dân. Chính quyền thối nát đến như vậy mà câu thơ thứ tư lại là một nhận xét “mát mẻ, nhẹ nhàng”.

“Lai Tân y cựu thái bình thiên” Nghĩa là ngày nào Lai Tân cũng thái bình như xưa. Vậy là Lai Tân rất thái bình, dân tình rất yên ổn, quan lại cũng yên ổn chỗ ngồi. Ngày hôm nay người dân Lai Tân vẫn sống không khác ngày xưa. Quan lại vẫn ngồi trên đầu trên cổ của nhân dân.

Chính quyền Lai Tân, bây giờ là Trung Hoa dân quốc. Chính thể dân chủ tự hào đã tiêu diệt được chế độ quân chủ. Chế độ hôm nay ắt hẳn hơn chế độ xưa. Ấy mà, Hồ Chí Minh lại so sánh ngày thái bình hôm nay như ngày thái bình xưa kia. Dân chủ hay quân chủ thì cũng là “y cựu” cả thôi!

Câu thơ cuối cùng chứa đựng phong cách châm biếm của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp giờ thể hiện ở Hồ Chí Minh trên đất Trung Quốc. Lời nói có vẻ dửng dưng nhẹ nhàng nhưng mang sức mạnh chiến đấu. Thái độ đả kích là rất quyết liệt, rất mạnh mẽ!

Mở đầu cuốn Truyện Kiều bất hủ của mình, đại thi hào Nguyễn Du viết:

Rằng năm Gia Tĩnh, triều Minh

Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.

Ấy vậy mà có một địa ngục trần gian ở trong tác phẩm. “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”, vậy mà:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn huyện trưởng làm công việc.

Phân tích bài thơ Lai Tân - mẫu 4

Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam, một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh vừa phản ánh bộ mặt xấu xa tàn bạo của xã hội nhà tù và xa hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch vừa khắc họa chân dung của một bậc “đại trí đại nhân đại dũng” là Hồ Chí Minh. Bài thơ “Lai Tân” là một bài thơ đã khái quát hóa được bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thông qua những cảnh ngược đời của ban trưởng cảnh trưởng huyện trưởng nhà thơ nhằm vạch trần bộ mặt tham lam và vô trách nhiệm của tầng lớp quan lại của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Bộ mặt xã hội đó được nhà thơ phản ánh vừa cụ thể vừa khái quát, tác giả viết:

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh

Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.”

Tập thơ “Nhật ký trong tù” (1942 – 1943) gồm có 134 bài trong đó bài “Lai Tân” là bài thứ 97. Bài thơ khái quát hóa bộ mặt thống trị thối nát xấu xa của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Mở đầu bài thơ nhà thơ giới thiệu hai cành ngược đời của bọn quan lại trong và ngoài nhà tù.

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”

Trước hết tác giả đưa ra ánh sáng tên quan lại coi tù ở trong nhà tù đó là ban trưởng.

“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”

“Giam phòng ban trưởng thiên thiên đổ”

Câu thơ mở đầu bài thơ “Lai Tân” tác giả đã chộp được một sự kiên hết sức kinh ngạc là ban trưởng nhà lao đánh bạc. Đây là một chuyện lạ bởi vì xã hội Trung Quốc thời bấy giờ đánh bạc là trọng tội. Hồ Chí Minh đã từng viết về chuyện đánh bạc này trong “Nhật ký trong tù” rằng “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội”. Hay là tác giả đã viết hẳn một bài thơ có tên “Một người tù cờ bạc vừa chết”. Người tù cờ bạc vừa chết vì phạm tội đánh bạc bị tra tấn hành hạ dã man “Thân anh da bọc lấy xương, khổ đau đói rét hết phương sống rồi, hôm qua còn ngủ bên tôi, hôm nay anh đã về nơi suối vàng”. Thế mà ban trưởng lại chuyên đánh bạc và dĩ nhiên đánh bạc trong tù chỉ có thể là đánh bạc với đám tù nhân. Đánh bạc là đã sai, đánh bạc với đám tù nhân lại càng sai nữa. Chưa dừng lại ở đó đã đánh với đám tù nhân thì phần thắng dĩ nhiên thuộc về ban trưởng. Như vậy đó là một hình thức bóc lột tù nhân của ban trưởng. Tên ban trưởng đã phạm hai trọng tội đó là đánh bạc thủ tiêu luật pháp và tham lam vơ vét của tù nhân.

Nhìn ra bên ngoài nhà tù thì tác giả lại tóm được một tên có chức trưởng nữa là cảnh trưởng tức cảnh sát trưởng thi hành pháp luật nhưng cũng làm trái với pháp luật.

“Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh”

“Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền”

Trong “Nhật ký trong tù” Hồ Chí Minh đã có nhiều bài thơ ghi lại bộ mặt xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch. Một cách nổi bật của bọn quan lại thời bấy giờ là nạn ăn hối lộ. Chúng đặt ra đủ cách đủ điều để bóc lột người dân bóc lột tù nhân. Hồ Chí Minh đã từng vạch trần rằng “muốn ngủ cho yên giấc, anh phải trả tiền nhiều”, “vào nhà lao phải trả tiền đèn, tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên” nếu không thì “mỗi bước anh đi mỗi bước phiền”. Tên cảnh trưởng này cũng không nằm ngoài bọn quan lại xấu xa đó, Hồ Chí Minh đã vạch trần sự tham lam của tên cảnh trưởng tìm mọi cách để “kiếm ăn quanh” là ăn tiền hối lộ của phạm nhân. Mặc dù tác giả không nói cụ thể việc ăn hối lộ như thế nào nhưng với cụm từ “cảnh trưởng tham thôn” là cảnh sát trưởng tham lam khi giải phạm nhân thì người đọc cũng liên tưởng tên cảnh sát trưởng này sẽ vòi vĩnh để ăn tiền hối lộ của phạm nhân như thế nào. Như vậy cảnh sát trưởng là giải người có tội thì chính hắn lại là người phạm tội, một cảnh ngược đời.

Với hai câu thơ tác giả đã lôi ra hai nhân vật quan lại trong và ngoài tù để chỉ mặt vạch tên, chúng lại là những kẻ thủ tiêu pháp luật chà đạp lên pháp luật. Lôi ra ánh sáng hai tên trưởng trong và ngoài nhà giam nhà thơ đã khái quát hóa cái đại loạn của nhà tù và xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.

Sau khi lôi ra đám quan chức làm bậy ở ngoài xã hội, nhà thơ đi đến việc giới thiệu hình ảnh quan chức đứng đầu huyện Lai Tân. Huyện trưởng nhìn qua thì cũng rất nghiêm túc rất trách nhiệm.

“Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

“Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự

Lai Tân y cực thái bình thiên”

Tên huyện trưởng được tác giả giới thiệu là đang làm công việc “biện công sự” và làm rất cần mẫn. Làm cả ngày cả đêm đến lúc phải chong đèn để làm công việc. Thế mà ban trưởng cảnh trưởng làm loạn chà đạp pháp luật rất xấu xa bỉ ổi mà huyện trưởng vẫn không hề biết. Trong con mắt huyện trưởng thì huyện Lai Tân của hắn vẫn “thái bình” như xưa và hắn tự hào về cái thái bình đó. Khi viết hai chữ này tác giả đã làn bật lên một tiếng cười châm biếm sâu cay. Nhà thơ Hoàng Trung Thông đã bình luận về hai chữ “thái bình” này rất đúng “Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh còn đất trời Lai Tân này thì vẫn thái bình như muôn thuở. Một chữ thái bình mà xâu tác lại bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toan tất cả sự thái bình dối trá nhưng thực sự là đại loạn bên trong.”

Bài thơ “Lai Tân” chỉ đưa ra ba hình ảnh tiêu biểu cho bọn quan lại thời bấy giờ của Trung Quốc như là ban trưởng, cảnh trưởng, huyện trưởng nhưng nhà thơ đã khái quát hóa được cái bộ mặt thối nát của giai cấp thống trị thời Tưởng Giới Thạch là vừa tham lam vừa vô trách nhiệm trước xã hội. Về mặt nghệ thuật nhà thơ đã diễn giải nội dung theo sự nâng tầng nâng cấp từ chỗ quan nhỏ là ban trưởng đến quan lớn hơn là cảnh trưởng đến quan lớn hơn nữa là huyện trưởng và càng lên cao thì càng hư hỏng thối nát. Chữ “thái bình” ở cuối bài làm vỡ òa ra một tiếng cười châm biếm làm bung phá ra cái bộ mặt xấu xa của tầng lớp quan lại.

Phân tích bài thơ Lai Tân - mẫu 5

"Nhật kí trong tù" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh. Nổi bật và đặc sắc phải kể đến bài thơ 97 - " Lai Tân" trích trong tập thơ. Bài thơ đã phản ánh, phê phán, mỉa mai, bóc trần,... bộ mặt của những người đứng đầu cai quản nhà tù cũng như xã hội thời bấy giờ.

Mở đầu bài thơ chính là sự thối nát, xấu xí,....của giai cấp thống trị-những con người đứng đầu các cấp, nắm giữ quyền lực, thực thi luật pháp:

"Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc

Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải

Huyện trưởng chong đèn làm việc công"

Ba câu thơ đầu của bài thơ đã cho ta một cái nhìn hiện thực về những con người thực thi pháp luật cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ. Đầu tiên là "ban trưởng đánh bạc". Chúng công khai đánh bạc trước mặt những người phạm nhân không phải chỉ một ngày mà là ngày ngày. Kẻ cầm đầu chính là ban trưởng - người thực thi pháp luật. Ban trưởng bấy giờ cũng như phạm nhân, tất cả lao đầu vào những lá cờ đỏ đen, bài bạc, nơi thực thi công lí, pháp luật lại biến thành sòng bài. Không phải chỉ ở đây ta mới bắt gặp cảnh này mà ở bài thơ "Đánh bạc" của Bác cũng đã khắc họa bức chân dung rõ nét nhất về cảnh bài bạc trong ngục tù:

"Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc được công khai

Vào tù con bạc ăn năn mãi:

Sao trước không vô quách chốn này"

Châm biếm, lên án một cách hóm hỉnh, qua mỗi hình ảnh ta lại càng cảm nhận sâu sắc, hiểu rõ hơn về vấn đề bài bạc trong nhà tù. Không chỉ có ban trưởng, mà đến cảnh trưởng cũng "tham lam ăn tiền phạm nhân". Ban trưởng thì bài bạc còn cảnh trưởng thì kiếm tiền từ những dân đen nghèo khó. Thay vì là nơi pháp luật nghiêm minh đây lại là nơi để chúng lợi dụng, trục lợi cá nhân. Những tưởng nhà tù là nơi để dẹp loạn, giúp dân thì nơi đầy lại chính là nơi diễn ra những gì thối tha, bần tiện, xấu xa nhất,.....Thật là một cảnh tượng xấu xí, thối nát của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Những tưởng cấp dưới hành động như thế thì cấp trên sẽ chỉnh đốn, sắp xếp, phạt nặng nhưng không, huyện trưởng vẫn "chong đèn làm việc".

Thái độ châm biếm, mỉa mai của tác giả càng làm ta thấy rõ bức tranh mục nát của nhà tù cũng như xã hội bấy giờ. Tại sao cấp dưới lại dám lộng hành như vậy? Chẳng phải là do sự ngầm cho phép, mắt nhắm mắt mở của cấp trên sao. Hắn chỉ để ý tới công việc của mình mà bỏ bê muôn dân. Từ sự châm biếm, lên án một cách hóm hỉnh, nhẹ nhàng mà thâm thúy của tác giả qua các câu chữ, hình ảnh ta đã thấy được sự thối nát, xấu xí của quan lại cũng như xã hội thời bấy giờ.

"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"

Câu thơ cuối cùng bài thơ khiến người đọc băn khoăn. Tại sao trước một xã hội thối nát như vậy thì lại có thể "thái bình" cho được. Nhưng đây chỉ là thủ pháp nói ngược của Bác mà thôi. Hóa ra từ xưa tới giờ Lai Tân "vẫn thái bình" như vậy. Từ "vẫn" thể hiện rõ sự khinh bỉ, châm biếm của tác giả. Tưởng chừng như những thói hư tật cái xấu trong nhà tù, xã hội là bất thường nhưng lại là bình thường. "thái bình" chính là sự ẩn nấp của những thói hư tật xấu, tệ nạn đang diễn ra trong xã hội. Qua tất cả, Hồ Chí Minh đã cho ta thấy sự thật về sự thối nát, lên án, đả kích tới chế độ nhà tù ở Tưởng Giới Thạch cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ.

Bài thơ "Lai Tân" đã khái quát được bộ mặt bộ mặt xấu xa, bỉ ổi của những con người cấp cao nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy đã khiến "Lai Tân" trở nên vô cùng đặc sắc. Lời thơ ngắn gọn, không quá cầu kì trau chuốt, chỉ với bốn câu thơ thôi mà vị anh hùng dân tộc đã nói lên tiếng nói căm phẫn thay cho tiếng lòng của hàng triệu người vô tội, những con người chán ghét thói ích kỷ, cậy quyền, yêu chính nghĩa và đấu tranh vì chính nghĩa.

Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:


lai-tan.jsp


Giải bài tập lớp 11 sách mới các môn học