Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ (dàn ý, 30 mẫu)
Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ (dàn ý, 30 mẫu)
Đề bài: Hãy viết một bài văn thuyết minh ngắn để giới thiệu về một ngành nghề thủ công mỹ nghệ (hoặc một đặc sản, một nét văn hóa ẩm thực) của địa phương mình.
Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ - mẫu 1
Làng tranh Đông Hồ
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát có nghề làm tranh
Đó là những câu ca gợi cảm về một làng nghề truyền thống từ lâu đã được nhiều người biết đến - Làng tranh Đông Hồ.
Đông Hồ, một cái tên làng quen thuộc xinh xắn nằm bên bờ sông Đuống thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Hà Bẳc cũ (nay là tỉnh Bac Ninh, cách Hà Nội chừng trên 35 km). Từ lâu tên làng đi vào cuộc sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam bằng nhữnẹ bức tranh dân gian nổi tiếng, đậm đà săc thái dân tộc. Làng tranh Đông Hô xưa còn gọi là làng Mái (đôi khi dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ), là làng nghề nổi tiếng về tranh dân gian. Làng Đông Hồ nằm trên bờ nam sông Đuống, cạnh bến đò Hồ, nay là cầu Hồ. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ gần nhất là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa danh khá nôi tiêng của huvện Gia Lâm Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) là đển phố Hồ - huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km là đến làng Hồ. Cũng cỏ thẻ đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai sẽ có biên chi đường xuống làng Đông Hồ.
Tranh của làng Đông Hồ có từ thời Lê. Ở cái làng nghèo mà hào hoa như làng tranh Đông Hồ trước đây thường truyền nhau câu ca "Lảng Mải có lịch có lề - Có sông tắm mát, có nghề làm tranh". Qua nhiều thế kỳ, 17 dòne họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm tranh. Không khí sầm uất vào cừ tháng mười một, tháng chạp, các thuyền từ xứ Đông xứ Đoài ghé bến "ăn tranh". Người làng tranh trước ở ngoài đê vào mùa vụ làm tranh cũng phải một sương hai năng tất bật khuya sớm. Thôi thì chỗ này rậm rịch tiếng chày giã điệp, chỗ nọ dỡ ván in tranh cọ rửa lau chùi sạch sẽ. Khói đôt than lá tre ẩn hiện la đà trên các ngọn cây. Làng Đông Hồ ruộng đất ít, sống chủ yếu bằng nghề làm tranh. Nghề làm tranh trong làng rất được trọng vọng. Ai có hoa tay, có thú chơi cầm, kì, thi, họa đều được mọi người vị nể (cũng là theo cái thú tao nhã của nhà nho xưa). Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, là một dòng tranh dân gian Việt Nam. Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Tranh làng Đông Hồ không phải vẽ theo cảm hứng nghệ thuật mà người ta dùng ván để in. Tranh được in hoàn toàn bằng tay với các bản màu; môi màu dùng một bản, và bản nét (màu đen) in sau cùng. Nhờ cách in này, tranh được "sản xuất" với số lượng lớn và không đòi hỏi kĩ năng cầu kì nhiều. Tuy nhiên vì in trên ván gỗ một cách thủ công, nên tranh bị hạn chế về mặt kích thước, thông thường các tờ tranh không lớn quá 50 cm mồi chiều. Để có những bản khắc đạt đến trình độ tinh xảo phải có người vẽ mẫu. Những người vẽ mâu và bản khắc ván đòi hỏi họ phải có lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ, đặc biệt phải có trình độ kĩ thuật cao. Công đoạn in tranh có lẽ không khó lắm bởi lẽ ai cũng có thể phết màu lên ván rồi in. Giấy dùng in tranh là loại giấy gió mịn mặt. Trước khi in, giấy được bồi điệp làm nền, chắt điệp óng ánh lấy từ vỏ con sò, con hến đã tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh dản gian Đông Hồ. Sau khi in thành tranh, kể cả cả lúc tranh khô, người xem vẫn cảm nhận được màu sắc của tranh thật tươi tắn như lúc tranh ướt. Các hình khối, mảng nọ đặt cạnh mảng kia có sự ăn ý hài hoà một cách tự nhiên. Các màu đã hoà quyện in tranh thường lấy từ chất liệu thiên nhiên: màu đen người ta phải đốt lá tre rôi lây than của nó; màu xanh lây từ vỏ và lá tràm, màu vàng lấy từ hoa hòe, màu đỏ thắm lấy từ thân, rễ cây vang, màu son lấy từ sỏi núi, màu trắng là điệp... Xem tranh dân gian ta thường băt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lí hợp tình. Tranh Đông Hồ còn hấp dẫn bởi vẻ rực rỡ, sắc màu tươi rói của nhừng bộ tứ bình, Thạch Sanh, những gà, lợn, mèo, chuột, ngựa... Một nhà thơ xứ Kinh Bấc đã viết:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Hồn dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Có thể nói, cái đặc biệt của tranh Đông Hồ là ở chỗ đó. Tranh dân gian Hàng Trống, Kim Hoàng, Huế... không thể có sắc màu muôn hồng ngàn tía của tranh Đông Hồ, cũng không thể có nền giấy điệp quyến rũ đó. Người sành tranh Đông Hồ chính bởi chất dân gian chứa đựng trong tờ tranh nền giấy điệp trắng ngà, lướt nhẹ lượt hoà vàng hay vàng đỏ.
Tranh Đông Hồ gồm các loại: Tranh thờ - bộ ngũ sự; tranh lịch sử: Hai Bà Trưng, Bà Triệu...; truyện tranh: Thánh Gióng, Truyện Kiêu, Thạch Sanh; phó biến nhất là chúc tụng; ví như tranh Vinh hoa - Phú quý, Nghi xuân, Gà đàn (xem thêm bảy bức tranh gà); tranh sinh hoạt: Đánh ghen, Chăn trâu thổi sáo, Nhà nông, Đám cưới Chuột, Hái dừa... Tranh Đông Hồ có đặc điểm thường là những hình ảnh sung túc như đám cưới chuột, cảnh trai gái cùng nhau hái dừa, cảnh cá chép nhiều màu vẫy đuôi... thể hiện mong muốn về sự sung túc.
Có một điều đặc biệt là người dân làng Hồ chuyên sản xuất tranh nhưnẹ chẳng bao giờ treo trong nhà mà đem bán hoặc cho hết. Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng ba âm lịch. Trong hội làng có những nghi thức truyên thông như tê thân, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng còn có các làn điệu dân ca như:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu
Mua tờ tranh điệp tươi màu
Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiêu.
Theo thời gian, làng tranh cùng trải qua biêt bao nhiêu thăng trầm. Các cụ nghệ nhân trong làng kể lại: Hồi Pháp thuộc, người ờ nhà Bác cố thỉnh thoảng lại đánh xe ô tô về mua tranh, thậm chí mua cả bân khắc tranh nữa! Nhà cụ Lử có bản khắc tranh gà rất quý đưa đi đóng cửa chuồng gà, người Pháp phát hiện ra hỏi mua cụ bán liền. Nghĩ lại mà tiếc! Còn nhớ cái thuở Tây càn, dân làng Hồ chạy loạn, binh lửa chiến tranh liên miên và cái khí hậu ẩm ướt khắc nghiệt của thiên nhiên miền Bắc, ván khắc tranh bị hỏng và thất lạc khá nhiều. Bản gốc tranh Đánh ghen, Gà đại cát, lợn ăn lá dày... cũng không còn nữa. Sau ngày Hòa Bình lập lại thấy trên báo Pháp có in tranh dân gian làng Hồ, Chính phủ ta phải liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin cho khắc lại ván tranh để bảo tồn. Đã có một thời gian tranh dân gian Đông Hồ bị lãng quên nên nghề làm tranh mai một ít nhiều. Không ít hộ bỏ làm tranh chuyển sang làm đồ vàng mã. Nhưng vài năm trở lại đây người Đông Hồ lại hoan hỉ trở lại với nghề tranh nhiều hơn bởi người dân của ta đã lại nhận ra vẻ đẹp trong sự mộc mạc giản dị của tranh Đông Hồ là không thể thiếu được trong cuộc sống thường nhật, nhất là ngày Tết.
Tranh Đông Hồ có một dạo lên đến điểm "cực thịnh", đã từng sáng giá trong các triển lãm nghệ thuật lớn ở các nước trên thế giói vứi nét vẽ nhuần nhụy, tươi tắn như hồn người đất Việt. Không chỉ có người Hà Nội và dân một số tỉnh thành trong nước yêu thích tranh dân gian Têt Đông Hồ về tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà không ít du khách, những người trong lĩnh vực hội hoạ, mỹ thuật của nước ngoài cũng đến để nghiên cứu vê nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Bà con Việt kiều khi về nước cùng phải tìm mua bằng được những bức tranh làng Hô và cô Tô Nữ dáng quê hương, đê khi ở xa quê trong sương mù Luân Đôn hay cái giá lạnh của Pa-ri hoa lệ. cảm thấy ấm lòng ở chốn tha hương.
Dàn ý Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ
I. Mở bài: giới thiệu một nét ẩm thực của địa phương mình - đó chính là phở.
II. Thân bài:
- Nguồn gốc:
+ Có nhiều ý kiến khác nhau, người bảo xuất hiện từ Nam Định từ đầu thế kỉ XX, người bảo có xuất xứ từ Hà Nội.
+ Phở là một trong những món ăn tiêu biểu cho nền văn hóa ẩm thực Việt Nam.
- Đặc điểm món Phở:
+ Phở chế biến được nhiều loại khác nhau: phở tái, phở gà, phở bò, phở cuốn hay phở xào...
+ Mỗi loại phở khác nhau có những cách chế biến và hương vị khác nhau.
+ Phở có nguyên liệu chính là bánh phở màu trắng được làm từ gạo.
+ Nước lèo được nấu từ xương ống ninh kĩ thêm một số gia vị như thảo quả, quế, hoa hồi, đinh hương,....
+ Phở thường được ăn kèm với các loại rau như hành tây, húng, chanh và rau thơm.
+ Hiện nay, nổi tiếng nhất chỉ có phở Hà Nội và Phở Nam Định
+ Phở chứa đựng quốc hồn quốc túy cũng như văn hóa ẩm thực đặc sắc của cả dân tộc Việt Nam.
III. Kết bài:
- Phở là món ăn không chỉ thơm ngon mà còn vô cùng bổ dưỡng.
- Phở đã trở thành một trong những món ăn phổ biến và quen thuộc trong đời sống con người Việt Nam.
Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ - mẫu 2
“Sao anh không về thăm em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên.”
Cùng với chiếc áo dài thì chiếc nón lá đi kèm từ lâu đã trở thành một hình ảnh tượng trưng cho nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Trở thành người bạn, người con tinh thần cùng với bà con nhân dân. Chiếc nón lá khắc sâu vào tâm trí mỗi người con Việt dù đi đâu về đâu. Một nét đáng tự hào của con dân đất Việt.
Chiếc nón lá xuất hiện từ rất lâu. Từ khoảng 2500-3000 năm trước công nguyên người ta đã chạm khắc hình ảnh chiếc nón lá trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn, trên tháp đồng Đào Định... Xuất hiện với đa dạng các loại nón: nón quai thao, nón thúng... ở Gò Lăng, Quảng Ninh.
Chiếc nón thường, phổ biến có dạng hình chóp hay tù tùy công dụng của mỗi loại nón khác nhau mà người làm sẽ thiết kế khác nhau, thậm chí có những nón rộng bản. Lá được dùng để làm nón thường được xếp trên một cái khung gồm các nan tre nhỏ uốn thành hình vòng cung, được ghim lại bằng sợi chỉ, hoặc các loại dây tơ tằm,..giữ cho lá với khung bền chắc, dẻo dai. Những chiếc nón lá thường được đan bằng các loại lá khác nhau như lá cọ, lá nón, lá buông, rơm, lá cối, lá hồi... Thêm vào đó nón lá thường có dây đeo bằng vải mềm hoặc nhung, lụa để giữ và cố định trên cổ người.
Vật liệu, cấu tạo nón nhìn tuy đơn sơ nhưng phải đến công đoạn hình thành một chiếc nón ta mới thấy trong đó cả sự tỉ mỉ, khéo tay của người thợ thủ công như thế nào. Đầu tiên là khâu chọn nguyên vật liệu là chọn lá, phơi lá, chọn chỉ. Và lá hay được dùng là lá dừa, lá cọ. Có được chiếc lá dừa thì phải mua từ tận trong nam, được vận chuyển và được làm trước khi chuyển tới nơi là nón. Sau đó, chọn lọc lá để xứ lí nhằm đảm bảo độ bền. Loại lá thứ hai là lá cọ và phải đảm bảo được các yếu tố sau: lá non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá cũng trắng xanh. Nếu không lựa chọn tỉ mỉ thì khi cho ra sản phẩm chiếc nón sẽ không được đẹp như ý.
Tiếp đến là công đoạn sấy khô trên bếp than. Sau đó đem lá mang ra phơi sương từ 2-5 giờ đến khi lá mềm ra. Người thợ thủ công sẽ dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp nóng để ủi cho từng chiếc lá được phẳng ra. Với thanh sắt bén gọn những người thợ chuốt từng nan tre sao cho tròn đều có đường kính rất nhỏ. Sau đó uốn nan tre này thành những vòng tròn lớn nhỏ đều được giũa bóng bẩy. Mỗi cái nón sẽ có 16 nan tre đã được uốn vòng như này. Những vòng ấy sẽ được đặt vào một cái khung bằng gỗ hình chóp theo vị trí từ dưới lên từ lớn đến bé. Sau đó người thợ xếp khung, người xếp lá phải khéo và đều tay để những chiếc lá không bị chồng lên nhau hoặc xô lệch.
Sau khi xếp lá cho đều, người ta làm đến công đoạn chằm nón. Nón được chằm bằng những sợi ni lông dẻo dai và săn chắc có màu trong suốt. Đòi hỏi người thợ phải có sự khéo léo đến từng đường kim mũi chỉ để có thể chằm nên những chiếc nón xinh đẹp. Để tăng thêm sự bắt mắt và tính thẩm mĩ, người ta thường phủ lên nón một lớp dầu mỏng làm điểm nhấn, và khiến nón được bền hơn. Đê tạo điểm nhấn cho nón thì đó là quai nón. Quai nón thường được làm bằn lục, nhung, khăn voan với những màu sắc tươi tắn: tím, hồng, đỏ.. tăng độ duyên dáng cho chiếc nón.
Nón có rất nhiều loại và được sản xuất ở rất nhiều làng nghề trên cả nước. Những chiếc nón quai thao duyên dáng xuất hiện trong các lễ hội của người miền bắc, nón bài thơ ở Huế hay những chiếc nón ngựa ở Bình Định... Nổi tiếng với các làng nghề làm nón thì có làng Chuông, làng Phủ Cam (ở Huế),...
Đi dọc mảnh đất hình chữ S thật không khó để bắt gặp hình ảnh những chiếc nón. Chiếc nón giản dị mộc mạc đã đi sâu vào đời sống tinh thần. Hình ảnh chiếc nón lá cũng như phẩm chất người phụ nữ Việt nam vậy. Sự trong trắng tinh khôi, nét mộc mạc giản dị cùng sự thanh tao quyến rũ vẫn hiện rõ nét ở trong từng chiếc nón. Chiếc nón cũng là biểu tượng đặc trưng cho hình ảnh đất nước Việt Nam. Những khách du lịch ngoại quốc đi đến Việt Nam thường ghé mua những chiếc nón lá và tỏ ra rất hứng thú với loại sản vật này của dân tộc ta. Nón lá là cũng là vật minh chứng góp phần khẳng định, củng cố hình ảnh đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Để có thể gìn giữ, và sử dụng chiếc nón một cách tốt nhất. Chúng ta cần lưu ý những điều sau. Cần treo nón lên cẩn thận mỗi khi không sử dụng nón, cần phơi nón ra ngoài trời nắng mỗi khi đi mưa gió về. Cũng không nên ngồi lên nón hay dùng nón để quạt... sẽ khiến nón bị méo vành và hỏng rất nhanh.
Cuộc sống hiện đại phát triển gắn liền với những chiếc xe náy, ô tô, những chiếc nón bảo hiểm. Nhưng chúng ta hy vọng chiếc nón lá vẫn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Mỗi người Việt xa xứ, xa quê đều vẫn khắc cốt ghi tâm hình ảnh của quê hương với những chiếc nón lá bình dị, đoan trang, duyên dáng, đơn sơ.
Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ - mẫu 3
Nhắc đên Việt Nam là nhắc đến một đất nước có nền văn hóa vô cùng đặc săc với bề dày 4 ngàn năm lịch sử. Và trong đó nền văn hóa ẩm thực được coi là một trong những điểm nhấn khó phai mờ trong lòng du khách bốn phương. Nếu bạn đã từng có cơ hội đến Việt Nam thì chắc hẳn không thể nào bỏ qua món phở - món ăn đậm đà bản sắc dân tộc, thanh đạm và vô cùng ngon miệng.
Vậy món phở bắt đầu tư bao giờ và ở đâu? Câu hỏi khiến rất nhiều người phải tranh cãi, bàn luận về vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Có người thì cho rằng nó xuất hiện từ Nam Định từ đầu thế kỉ XX tuy nhiên bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng nguồn gốc của nó là từ Hà Nội. Tuy nhiên dù có ở đâu thì đây cũng là một trong những món ăn tiêu biểu cho nền văn hóa ẩm thực Việt Nam.
Trước kia món phở chỉ có duy nhất một hương vị một loại là phở chín thế nhưng theo thời gian để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người dân phở đã được cải biến thành phở tái, phở gà, phở bò, phở cuốn hay phở xào... Mỗi loại phở khác nhau có những cách chế biến và hương vị khác nhau nó tạo nên sự phong phú cho nền văn hóa ẩm thực của Việt Nam.
Không giống những món ăn khác phở thường không có đồ ăn kèm, người Hà Nội thường dùng phở vào buổi sáng như một thức ăn thanh đạm mà chắc bụng. Tuy nhiên đối với những khách du lịch đến Hà Nội bạn có thể thưởng thức nó vào bất cứ lúc nào trong ngày và hầu như ở đây có rất nhiều những quán phở nổi tiếng mở liên tục sẵn sàng phục vụ khác hàng.
Phở có nguyên liệu chính là bánh phở màu trắng được làm từ gạo. Nước dùng hay còn có tên gọi khác là nước lèo được nấu từ xương ống ninh kĩ thêm một số gia vị như thảo quả, quế, hoa hồi, đinh hương,.... Và để tạo nên một bát phở có hương vị khác nhau mỗi đầu bếp sẽ chọn cho mình một cách chế biến và pha trộn hương vị khác nhau. Phở thường được ăn kèm với các loại rau như hành tây, húng, chanh và rau thơm. Mỗi vùng miền sẽ chọn một loại rau ăn kèm khác nhau.
Hiện nay phở khá phổ biến với mọi người song nổi tiếng nhất chỉ có phở Hà Nội và Phở Nam Định. Đây là hai vùng có hương vị phở vô cùng độc đáo và ngon miệng. Do sự phát triển của đời sống cũng như nhu cầu của con người phở hiện nay có rất nhiều món như phở gà, phở bò.... Nó đã được rất nhiều các nhà văn nhà thơ đưa vào trong những tác phẩm văn học có thể kể đến như Miếng ngon Hà Nội của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam....
Do sự phát triển của cuộc sống hiện đại phở ngày nay cũng được chuyển sang phở công nghiệp như phở chay, phở ăn liền vừa tiện lợi vừa nhanh chóng tiết kiệm tối đa thời gian cho con người. Thế nhưng một tô phở đúng nghĩa được nấu dưới những bàn tay đầu bếp tuyệt hảo vẫn mang một hương vị độc đáo khó quên.
Du khách nếu có cơ hội đến với Hà Nội không bao giờ bỏ qua món phở này. Nó chứa đựng quốc hồn quốc túy cũng như văn hóa ẩm thực đặc sắc của cả dân tộc Việt Nam. Giá một tô phở cũng rất rẻ chỉ khoảng 30 ngàn đồng mà lại vô cùng ngon lành.
Phở được coi là một trong những đặc sắc trong nền ẩm thực Việt Nam. Không chỉ thơm ngon mà còn vô cùng bổ dưỡng. Nó đã trở thành một trong những món ăn phổ biến và quen thuộc trong đời sống của người dân Hà Nội nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ - mẫu 4
Nem chua Thanh Hóa là món ăn nổi tiếng, là niềm tự hào của người dân nơi đây. Món này được chế biến hết sức kỳ công, qua nhiều công đoạn kỹ lưỡng, từ khâu chọn nguyên liệu cho tới khi đóng gói sản phẩm...
Thịt để làm nem phải là loại thịt nóng, nghĩa là khi heo vừa mới xẻ thịt thì người thợ làm nem phải thái, xay, chế biến ngay, không để lâu. Bởi nếu thịt nguội, nem sẽ không có độ bóng cũng như sự kết dính trong quá trình lên men.Ngày trước khi chưa có máy xay thịt, người thợ phải giã thịt bằng tay trên những cối đá lớn. Theo kinh nghiệm của những gia đình làm nem truyền thống, thì thịt giã cối đá sẽ có độ giòn, quánh, dính hơn là thịt xay máy.
Bì lợn cũng phải chọn rất kỹ, heo lấy bì phải là heo cạo chín, nghĩa là làm bằng nước sôi. Có như thế lông mới sạch và khi chế biến sẽ đỡ tốn thời gian. Để có những sợi bì trong, ngon, người thợ phải cạo thật sạch tất cả những phần mỡ còn sót lại trên bì, cho tới khi lớp bì mỏng, trắng tinh, trong suốt thì được. Bì càng làm kỹ bao nhiêu thì khi thái chỉ, bì càng giòn và dai bấy nhiêu.
Khi nguyên liệu chính là thịt và bì đã xong, người thợ sẽ trộn hai hỗn hợp này lại với nhau cùng các loại gia vị muối, bột ngọt, đường, nêm thêm chút nước mắm cho thơm. Sau đó mang hỗn hợp thịt trên ra đóng gói. Mỗi một chiếc nem được người gói cho kèm thêm chút tỏi, lá đinh lăng, ớt, những phụ gia này có tác dụng làm cho hương vị nem trở nên ngon hơn, hấp dẫn hơn và cũng là để cân bằng giữa lạnh (nem chua) với nóng (lá đinh lăng, ớt). Lá chuối gói nem phải là lá chuối ngự vừa xanh vừa dầy, bởi trong quá trình vận chuyển và lưu giữ nem vẫn tiếp tục lên men.
Để bảo quản được dài ngày, người thợ thường bọc giấy bóng thêm bên trong nem. Thông thường nem gói sau 3 ngày là chín, có thể dùng được. Bóc lớp lá chuối màu xanh ở ngoài, đã thấy lộ ra màu hồng của thịt, màu trắng của sợi bì, màu đỏ của ớt.
Khi thưởng thức sẽ gặp vị chua thanh của thịt, dai giòn của sợi bì, cay của ớt, thơm của tỏi, chát ngọt của đinh lăng ... một hương vị rất riêng mà không phải nem chua nơi nào cũng có như nem chua xứ Thanh. Nem Thanh có vị lạ rất khác với nem chua Hà Nội hay nem lụi ở Huế, lại càng khác xa với nem rán hay nem tai. Nó vừa chua, vừa cay lại có cả vị mặn mà của gia vị, có vị ngọt của thịt làm ta không thể không ăn tiếp vài cái nữa.
Nem chua Thanh Hoá vừa ngon, vừa rẻ nhưng có điều rất lạ và hay là có thể làm đồ nhắm, cũng có khi ăn với cơm. Tiện hơn cả là ở đâu ta cũng có thể nhấm nháp hương vị hấp dẫn của nó. Nghĩ đến nem chua quê mình đầu lưỡi tôi lại cay cay, ngọt ngọt. Khó mà tả được cảm giác sung sướng khi được ăn một vài miếng nem chua ở quê hương mình trong lúc đang ở nơi xa xôi.
Ai đi qua xứ Thanh cũng phải nếm thử hương vị lạ của những chiếc nem xinh xắn. Người dân xứ Thanh vào Nam ra Bắc, dù bận trăm công nghìn việc, dù mang vác nặng nề cũng cố đem vài chục chiếc để cho người nhà hoặc biếu người thân. Ngày lễ Tết hoặc cưới xin, nem chua trở thành món ngon không thể thiếu. Kèm với những cặp bánh chưng xanh, những chiếc giò ngày Tết là những xâu nem chua làm từ chất liệu quê hương mời khách đến chơi nhà.
Nếu có dịp dừng chân nơi miền đất này, mời bạn hãy thưởng thức nem chua xứ Thanh.Vị chua chua, ngọt ngọt đậm đà gia vị tạo nên hương thơm khó quên của món nem chua Thanh Hóa.Nem chua Thanh Hóa nổi tiếng xưa nay khắp một dải đất dài từ Nam ra Bắc. Người Thanh Hóa tự hào với bạn bè nơi nơi vì có một thứ quà không phải nơi nào cũng cứ học là làm được, mà nó được truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời khác qua nhiều năm nay.
Thuyết minh một ngành thủ công mỹ nghệ - mẫu 5
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
(Ca dao)
Hay như món “tép kho” cũng là một món ăn đặc trưng của dân tộc ta từ xa xưa, ngày nay tính “thực vật – sông nước” vẫn được thể hiện rõ ràng và món canh chua cá lóc cũng được xếp vào một trong những món ăn ngon của nền ẩm thực Việt thể hiện được tính chất này.
Canh chua cá lóc là một món ăn vốn đã rất quen thuộc với người dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng miền tây Nam Bộ, món canh ngon tuyệt này có thể giúp xua tan đi mọi mệt mỏi trong những ngày hè nắng nóng và đem đến cảm giác ấm lòng vào những ngày mùa đông lạnh giá. Gọi là canh chua nhưng ngoài vị chua đặc trưng ra, món canh này có cả vị ngọt đậm đà nữa.
Có rất nhiều cách để nấu được món canh chua cá lóc tuyệt ngon chỉ cần chuẩn bị đủ nguyên liệu để món canh này ngon đúng vị của nó. Nguyên liệu để nấu món này gồm: nguyên liệu nằm ngay ở tên món ăn và quan trọng nhất đó là cá lóc (1con khoảng 700 – 800g); dứa hay có nơi còn gọi là quả thơm (1 phần 4 quả); đậu bắp hay còn gọi là mướp tây (5 quả); cà chua ( 2 quả); giá đỗ (100g); dọc mùng (2 nhánh); me chua chín (50g). Rau thơm để nấu canh chua gồm hành lá, rau ngổ. Gia vị của món này gồm hành khô, tỏi, muối, hạt nêm, bột ngọt, đường, bột ớt, hạt tiêu, nước mắm và dầu ăn. Có thể thấy khâu chuẩn bị nguyên liệu cũng khá là cầu kì để có được một món ăn ngon.
Khi đã xong khâu chuẩn bị, ta chuyển sang khâu sơ chế nguyên liệu. Đây là một khâu cũng rot quan trọng, nguyên liệu được sơ chế cẩn thận thì khi nấu mới ngon được. Đầu tiên ta làm sạch và băm nhuyễn hành khô và tỏi. Tiếp đó là cá lóc, ta làm sạch, thái lát, lấy dao khứa nhẹ trên mỗi lát cá để khi ướp với gia vị sẽ dễ thấm. Sau đó ướp cá với một nửa thìa hành tỏi đã được băm nhuyễn, 1 thìa hạt nêm, một nửa thìa nước mắm, nửa thìa bột ngọt, nửa thìa dầu ăn, nửa thìa hạt tiêu rồi để khoảng mười lăm đến hai mươi phút để cá ngấm gia vị. Với quả dứa và đậu bắp ta làm sạch, cắt thành lát dài. Cà chua rửa sạch bổ thành miếng nhỏ như miếng cau, dọc mùng ta tước vỏ, cắt mỏng, bóp qua với một chút muối sau đó rửa sạch và chần nhẹ qua nước sôi rồi để ráo. Đối với giá đỗ ta rửa sạch và để riêng để tránh lẫn với các nguyên liệu khác. Các loại rau thơm ta nhặt rửa sạch và thái nhỏ. Quả me chua chín ta bỏ hạt rồi ngâm nước ấm.
Khi đã sơ chế xong, ta thực hiện nấu món canh chua này. Trước hết, người nấu lấy một thìa hành tỏi đã băm nhuyễn phi thơm với dầu ăn và cho thêm nửa thìa bột ớt để tạo màu cho món ăn. Cho cá lóc đã được ướp gia vị vào đảo nhẹ sau đó cho nước vào để nấu canh, cho thêm nước me chua và dứa vào. Đợi đến khi nước sôi, ta dùng lấy thìa vớt hết bọt phía trên để nước canh được trong. Khi cá sắp chín tới, ta cho cà chua, đậu bắp, dọc mùng và giá đỗ vào, cho thêm một phần tư thìa muối, nửa thìa đường, nửa thìa hạt nêm, nửa thìa bột ngọt tùy thuộc vào khẩu vị mặn, nhạt của người ăn. Đợi đến khi cá chín, tắt bếp cho rau thơm và hạt tiêu vào, như vậy là đã hoàn thành xong món canh chua cá lóc thơm ngon rồi mà lại cực kì đơn giản, dễ làm, không yêu cầu tay nghề cao mà vẫn có thể làm được một món ăn tuyệt ngon cho gia đình.
Món canh chua ngon có vị ngọt đậm đà, cá vừa chín tới không bị chín quá và cũng không có mùi tanh. Màu sắc của món canh hấp dẫn và có mùi thơm đặc trưng. Đây là một món ăn rất bổ dưỡng làm phong phú thêm bữa ăn của gia đình lại vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt.
Một số người đã nhầm giữa “cá nóc” và “cá lóc” vì thế cho rằng loài cá này gây độc nhưng theo nghiên cứu của y học thì cá lóc là một loại cá không có độc tính, cá lóc có vị ngọt, thịt ít mỡ, giàu khoáng chất và vitamin được xem là thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho sức khỏe có tác dụng thanh nhiệt, giải độc.có tác dụng bổ khí huyết và hỗ trợ chữa được nhiều chứng bệnh khác. Ngoài món canh chua cá lóc thì ta có thể chế biến được nhiều món khác từ loại cá này vừa là món ăn ngon vừa chữa được các bệnh như: mồ hôi trộm, sốt cao, viêm gan, vàng da…
Món canh chua cá lóc là một trong những món ăn ngon của dân tộc, mang đậm dấu ấn của quê hương. Món ăn như chất chứa tình cảm của người nấu dành riêng cho những ai yêu hương vị đặc trưng của quê hương mình, món ăn như một sợi dây níu giữ những ai xa quê về với quê hương đất Việt mình.
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 10 khác:
Thuyết minh một lễ hội ghi lại những nét đẹp của phong tục truyền thống (dàn ý, 30 mẫu)
Dàn ý Thuyết minh Vai trò của cây cối (của rừng) trong việc bảo vệ môi trường sống (3 mẫu)
Thuyết minh vai trò của cây cối (của rừng) trong việc bảo vệ môi trường sống (dàn ý, 30 mẫu)
Dàn ý Thuyết minh Tác hại của ma túy đối với cuộc sống của con người (3 mẫu)
Thuyết minh Tác hại của ma túy đối với đời sống con người (dàn ý, 30 mẫu)
Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:
- Giải bài tập Lớp 10 Kết nối tri thức
- Giải bài tập Lớp 10 Chân trời sáng tạo
- Giải bài tập Lớp 10 Cánh diều
- Giải Tiếng Anh 10 Global Success
- Giải Tiếng Anh 10 Friends Global
- Giải sgk Tiếng Anh 10 iLearn Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 10 Explore New Worlds
- Lớp 10 - Kết nối tri thức
- Soạn văn 10 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - KNTT
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - KNTT
- Giải sgk Toán 10 - KNTT
- Giải sgk Vật lí 10 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 10 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 10 - KNTT
- Giải sgk Địa lí 10 - KNTT
- Giải sgk Lịch sử 10 - KNTT
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - KNTT
- Giải sgk Tin học 10 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 10 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - KNTT
- Lớp 10 - Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 10 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - CTST
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - CTST
- Giải Toán 10 - CTST
- Giải sgk Vật lí 10 - CTST
- Giải sgk Hóa học 10 - CTST
- Giải sgk Sinh học 10 - CTST
- Giải sgk Địa lí 10 - CTST
- Giải sgk Lịch sử 10 - CTST
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - CTST
- Lớp 10 - Cánh diều
- Soạn văn 10 (hay nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (ngắn nhất) - Cánh diều
- Soạn văn 10 (siêu ngắn) - Cánh diều
- Giải sgk Toán 10 - Cánh diều
- Giải sgk Vật lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 - Cánh diều
- Giải sgk Kinh tế và Pháp luật 10 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 10 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 10 - Cánh diều